Đề cương ôn thi môn Ngữ văn Lớp 12

Đề cương ôn thi môn Ngữ văn Lớp 12

PHẦN MỞ BÀI

Xứ Huế từ lâu đã nổi tiếng không chỉ vì là nơi tập trung những đền đài lăng tẩm của các vua triều Nguyễn, những ngôi chùa, nhà thờ, đền đài cổ kính, mà Huế còn là vùng đất có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng. Sông Hương được cho là rất đẹp khi chiêm ngưỡng từ nguồn và khi chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm của hệ thực vật nhiệt đới. Các công trình kiến trúc hai bên bờ sông phản chiếu trên dòng nước khiến con sông mang theo nhiều chất thơ và tính nhạc. Núi Ngự và sông Hương là hai thắng cảnh nổi tiếng của đất cố đô. Sông Hương - Núi Ngự luôn hiện hữu bên nhau, đi vào đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân địa phương và tồn tại trong tâm thức dân tộc Việt từ thế kỷ 18 đến nay.

 

docx 18 trang phuongtran 7960
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn thi môn Ngữ văn Lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AI ĐÃ ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
Hoàng Phủ Ngọc Tường
PHẦN MỞ BÀI 
Xứ Huế từ lâu đã nổi tiếng không chỉ vì là nơi tập trung những đền đài lăng tẩm của các vua triều Nguyễn, những ngôi chùa, nhà thờ, đền đài cổ kính, mà Huế còn là vùng đất có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng. Sông Hương được cho là rất đẹp khi chiêm ngưỡng từ nguồn và khi chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm của hệ thực vật nhiệt đới. Các công trình kiến trúc hai bên bờ sông phản chiếu trên dòng nước khiến con sông mang theo nhiều chất thơ và tính nhạc. Núi Ngự và sông Hương là hai thắng cảnh nổi tiếng của đất cố đô. Sông Hương - Núi Ngự luôn hiện hữu bên nhau, đi vào đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân địa phương và tồn tại trong tâm thức dân tộc Việt từ thế kỷ 18 đến nay.
Trong thi ca: 
Sông Hương hỡi, xuân vừa tơ liễu
Cả trăm hoa hàm tiếu nhởn nhơ
Vì đâu nước chảy lững lờ
Hay cho thế sự cuộc cờ chiêm bao
(Hàn Mặc Tử)
Ai đã từng vào Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ sông Hương nước biếc, nhớ non Bình trăng trong
(Ca dao)
I. TÌM HIỂU CHUNG 
 Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937), là một trí thức yêu nước, nhà văn gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, chuyên viết về bút kí, là “một trong những nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc); sáng tác luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, nghị luận và tư duy đa chiều với một lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa. 
- Tác phẩm chính: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1986), Hoa trái quanh tôi (1995) 
 Nét đẹp của văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa tạo khả năng liên tưởng kì diệu; lối kí phóng khoáng, tài hoa, giàu thông tin văn học, lịch sử; giàu chất thơ trữ tình lãng mạn.
- Là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa
 Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Ai đã đặt tên cho dòng sông viết tại Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Tác phẩm gồm ba phần, đoạn trích là phần thứ nhất.
 Về Nhan đề
- Tiêu đề lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sông, cái tên gợi bao cảm xúc, nỗi niềm xưa cũ. Cái tên đẹp đó được tác giả lí giải bằng một bài tùy bút.
- Gợi lên niềm biết ơn đối với những người đã khai phá miền đất lạ; làm đọng lại một niềm bâng khuâng trong tâm hồn người đọc.
 Tác giả coi Hương giang là biểu tượng của tất cả những gì mang vẻ đẹp của cảnh sắc và con người cố đô.
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Vẻ đẹp sông Hương được phát hiện ở cảnh sắc thiên nhiên. Sông Hương được coi là một sáng tạo tuyệt vời của tạo hóa.
a. Ở thượng nguồn. 
Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn:
- Ở đây, nó mang vẻ đẹp đầy ấn tượng là bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn.
- Cũng có lúc Hương giang dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
- Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương sôi nổi nồng nàn như một cô gái Di-gan phóng khóang và man dại, có bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.
=> Bằng những liên tưởng độc đáo, những so sánh và nhân hóa mạnh mẽ, tác giả đã miêu tả được cảnh sắc thiên nhiên rất đa dạng của sông Hương, biến sông Hương thành một sinh thể hết sức sinh động, với vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính.
b. Ở đồng bằng.
- Ra khỏi rừng già sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa.
- Trong cái nhìn tinh tế và tài hoa lãng mạn của tác giả, sông Hương khi chảy về đồng bằng là một bức tranh đẹp có những đường khối sống động hài hòa. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương là người đẹp nằm ngủ mơ màng...
- Vẻ đẹp ấy thể hiện ở sự chuyển dòng liên tục uốn mình theo những đường cong thật mềm để tìm đường đi tới thành phố. Đó là những khúc quanh vượt qua bao địa danh mang màu sắc văn hóa Huế: ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, ...chân đồi Thiên Mụ.
- Vừa mạnh mẽ, vừa dịu dàng, có lúc mềm như tấm lụa khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi mang vẻ đẹp biến ảo như tấm phản quang nhiều màu sắc của nền trời tây nam thành phố sớm xanh, trưa vàng, chiều tím; có khi mang vẻ đẹp trầm mặc lặng lẽ chảy dưới những rừng thông u tịch với những lăng mộ kiêu hãnh âm u của các vua chúa triều Nguyễn; lại có khi nó đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa, đi giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà.
- Bằng vốn hiểu biết phong phú cùng sự quan sát tinh tế và dùng nhiều biện pháp so sánh, nhân hóa, bút pháp kể và tả, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh một con sông Hương đẹp bởi sự phối cảnh giữa nó và thiên nhiên xứ Huế.
c. Khi vào thành phố Huế.
- Vui tươi, chậm rãi, mềm mại êm dịu 
- Hình dạng sông uốn lượn một cánh cung rất nhẹ, như một vầng trăng non.
- Nằm ngay gữa lòng thành phố yêu quý của mình, cũng như sông Xen của Pa-ri, sông Da-nuýp của Bu-đa-pét, ..Nhưng trong cách miêu tả của tác giả, được nhìn nhận ở nhiều góc độ.
+ Nhìn bằng con mắt hội họa những chi lưu của nó tỏa đi khắp các phố thị tạo thành những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được.
+ Bằng cảm quan âm nhạc thì khi đi qua thành phố như điệu slow chậm rãi, êm dịu, ngập ngừng như muốn đi muốn ở..như vấn vương của một nỗi lòng.
+ Với cái nhìn đắm say của một chàng trai đa tình thì là người tình dịu dàng và chung thủy, nó đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố lần cuối.
- Việc dùng ngôn ngữ uyển chuyển giàu chất thơ, chất nhạc cùng nhiều so sáng sáng tạo cho thấy tình cảm gắn bó, say mê, tự hào của tác giả với dòng sông, với Huế.
d. Khi ra khỏi thành phố Huế. 
Sông Hương mang vẻ đẹp gợi cảm của một người con gái chung tình: khúc quanh này thật bất ngờ biết bao, mang một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, trở lại tìm Kim Trọng... để nói một lời thề trước lúc về biển cả. 
III. TỔNG KẾT:
1. Nghệ thuật.
 - Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa.
 - Ngôn từ phong phú, gợi hình, gợi cảm; câu văn giàu nhạc điệu, uyển chuyển.
 - So sánh, nhân hóa độc đáo, liên tưởng bất ngờ, thú vị.
 - Kết hợp nhuần nhuyễn bút pháp kể và tả.
2. Ý nghĩa văn bản.
 - Thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sông Hương.
 - Ca ngợi một dòng sông thơ mộng, trữ tình gắn liền với mảnh đất và tâm hồn con người 
 - Tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dòng sông quê hương, với cố đô.
PHÂN TÍCH HÌNH ẢNH NGƯỜI LÁI ĐÒ
I/ GIỚI THIỆU.
- Nguyễn Tuân là một nhà văn giàu cá tính sáng tạo, và là một đại diện tiêu biểu của VHVN hiện đại. Ông có nhiều trang viết tài hoa, độc đáo.
- Tùy bút « Người lái đò sông Đà » rút từ tập « Sông Đà », là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân. 
- Bằng vịêc miêu tả người lái đò, Nguyễn Tuân khẳng định : chất vàng mười của vùng Tây Bắc chính là người lao động cần mẫn, hiên ngang.
II/ PHÂN TÍCH .
1/ Hình dáng:
- Nghề nghiệp khắc nghiệt đã in dấu lên những nét đặc biệt của ông đò: Tay lêu nghêu, chân khuỳnh khuỳnh, giọng ào ào như tiếng nước ..”. “Cái đầu quắc thước” đặt trên thân hình cao to gọn quánh như chất sừng mun. Nếu bịt cái đầu bạc lại thì sẽ lầm tưởng là một chàng trai. 
- Chỉ bằng vài nét, NT đã tạc lên bức chân dung ông lái đó, qua đó cũng ngầm hé lộ nội tâm, phong thái, bản lĩnh của một con người lao động tài hoa, khoẻ mạnh. 
2/ Đó là một nghệ sĩ tài ba trong những lần chèo thuyền vượt thác.
- Tư chất tài hoa, tài tử của ông lái đò được nhà văn tô đậm qua cuộc giao tranh với dòng sông và những bãi đá ngầm. Đây là một cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thần sông, thần đá với binh hùng tướng mạnh của sóng nước và thác đá, và một bên là người lái đò với con thuyền gồm sáu tay chèo. Quan sát trận thủy chiến, ta mới thấy dụng ý của tác giả: miêu tả cái hung bạo, dữ dội của Đà giang là để tạo ra một đối thủ xứng đáng với tầm vóc của con người.
- Ở thạch trận thứ nhất,” thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, còn cửa sinh duy nhất nằm ở sát bớ trái”. Luồng sóng hung dữ “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí, nó còn nhằm vào người cầm lái mà “đánh đòn tỉa”. Trong thế trận ấy, ngừơi lái đò bĩnh tĩnh nắm giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất lên sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc trúng đòn hiểm, “mặt méo bệch” vì đau, ông vẫn tỉnh táo chỉ huy các bạn chèo đưa con thuyền vào đúng luồng sinh.
- Ở thạch trận thứ hai, thần sông thay đổi chiến thuật và sơ đồ phục kích. Nhưng, ông đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá” nên đã nhận ra cạm bẫy của bọn thủy quân nơi ải nước này. Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác, nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò “ghì cương lại, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh”. Cuối cùng, ông đã đưa thuyền vượt qua “cả một tập đòan cửa tử” làm cho mặt bọn đá hung hăng phải “xanh lè thất vọng”.
- Còn ở thạch trận thứ ba, cửa tử ít hơn nhưng hai bên đều là luồng chết, “cửa sinh này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác” . Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm ác của chúng . Ông điều khiển con thuyền để nó như con tuấn mã hiểu ý chủ, “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa đó”. Con thuyền “vun vút xuyên nhanh qua hơi nước”.
=> Miêu tả ba lần phá vòng vây này, NT đã tạo nên những màn thủy chiến hào hùng mà nhân vật trung tâm là người lái đò. Ông như một viên tướng tài ba, chiến đấu gian lao trên chiến trường sông Đà bằng tài năng của một người lao động – nghệ sĩ => Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn. Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đó tìm được nhân vật mới cho mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang bóng mà ngay trong quần chúng lao động bình thường xung quanh ta. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm : người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày. 
3/ Ông cũng là người lái đò có tâm hồn bình dị, khiêm tốn.
- Sau mỗi lần vượt thác là ông cùng mọi người "ung dung" đốt lửa trong hang đá , “nướng ống cơm lam bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh, chẳng ai bàn thêm về chiến thắng vừa qua”. 
- Cái phi thường đã thành cái bình thường, chất nghệ sĩ hòa với chất chiến sĩ trong mặt trận lao động. Đó là chất vàng mười của con người TB.
=> Nghệ thuật miêu tả tinh tế, sinh động. Nguyễn Tuân nhân hoá với trí tưởng tượng phong phú, táo bạo, bất ngờ. Hình ảnh sông Đà hung bạo là đối thủ xứng tầm của con người. Và ông lái đò là chân dung người lao động tuyệt vời, hiên ngang bất khuất -lãng mạn trong cuộc đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên. 
III/ KẾT LUẬN:
- Người lái đò sông Đà là một hình ảnh tuyệt đẹp về người lao động vừa có tư thế phẩm chất của người anh hùng, vừa mang phong cách người nghệ sĩ. Đây là nhân vật mà nhà văn gửi gắm biết bao tình cảm yêu mến và trân trọng.
- Tác phẩm mang phong cách nghệ thuật độc đáo của NT: ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, kiến thức uyên bác, các biện pháp tu từ phát huy tối đa khả năng biểu đạt, sự vật, con người được phát hiện miêu tả ở phương diện cái đẹp.
 ĐỀ THAM KHẢO 1 
Môn thi: Ngữ văn 12 - CB
I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Bất chợt giật mình, hạnh phúc đơn giản vậy sao? Ừ nhỉ! Dường như lâu nay chúng ta chỉ quen với việc than phiền mình bất hạnh chứ ít khi biết được rằng mình đang hạnh phúc. Hãy một lần thử nghĩ xem: Khi chúng ta than phiền vì bố mẹ quá quan tâm đến chuyện của mình thì ngoài kia biết bao nhiêu người thèm hơi ấm của mẹ, thèm tiếng cười của bố, thèm được về nhà để được mắng; khi chúng ta cảm thấy thiệt thòi khi không được ngồi xe hơi chỉ vì phải chạy xe máy giữa trời nắng thì ngoài kia biết bao nhiêu bạn của chúng ta mồ hôi nhễ nhại, gò mình đạp xe lên những con dốc vắng; khi chúng ta bất mãn với chuyện học hành quá căng thẳng thì ngoài kia biết bao người đang khao khát một lần được đến trường, một lần được cầm cây bút để viết lên những ước mơ; khi chúng ta...
(Dẫn theo Bài tập Ngữ văn 11, tập 2, NXB Giáo dục 2007)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 2. Tại sao tác giả lại “Bất chợt giật mình, hạnh phúc đơn giản vậy sao?”?(1,0 điểm)
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu in đậm (1,0 điểm)
Câu 4. Anh/chị hãy rút ra thông điệp có ý nghĩa nhất trong đoạn trích trên. (0,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Qua đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ suy nghĩ của mình về: Hạnh phúc của giới trẻ trong thời đại ngày nay. 
Câu 2 (5 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài “Sóng” của nữ sĩ Xuân Quỳnh:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương” 
(Ngữ Văn 12 Cơ bản, Tập một, NXB Giáo dục, tr. 155, 156)
HẾT
Thí sinh không được sử dụng tài liệu
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm): 
Câu
Nội dung
1
Đoạn trích thuộc phong cách ngôn ngữ Chính luận.
2
Tác giả “Bất chợt giật mình, hạnh phúc đơn giản vậy sao?” bởi vì:
 Dường như lâu nay chúng ta chỉ quen với việc than phiền mình bất hạnh chứ ít khi biết được rằng mình đang hạnh phúc. 
3
- Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu (9): liệt kê, điệp ngữ, tương phản-đối lập.
- Tác dụng: 
+ Tạo giọng điệu thiết tha, hùng hồn, mạnh mẽ để tăng tính thuyết phục.
+ Nhấn mạnh sự tương phản về hoàn cảnh của chúng ta và biết bao nhiêu người để từ đó gợi ra quan niệm về một hạnh phúc giản đơn.
4
 Thông điệp có ý nghĩa nhất trong đoạn trích:
 Chúng ta cần biết trân trọng những hạnh phúc bình dị, giản đơn nhưng thiết thực trong cuộc sống hiện tại.
Tổng điểm
II. LÀM VĂN (7,0 điểm): 
Câu
Nội dung
1
 Qua đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ suy nghĩ của mình về: Hạnh phúc của giới trẻ trong thời đại ngày nay. 
a) Đảm bảo cấu trúc đoạn nghị luận.
b) Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
 Hạnh phúc của giới trẻ trong thời đại ngày nay.
c) Triển khai vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm phù hợp:
(1)- Giải thích: 
 Hạnh phúc là một trạng thái tâm lý của con người khi ta cảm thấy vui vẻ, thoả mãn. (Câu mở)
(2)- Bình luận: 
 * Giới trẻ hiện nay quan niệm về hạnh phúc như thế nào?
 Giới trẻ hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về hạnh phúc:
 + Hạnh phúc là hưởng thụ;
 + Hạnh phúc là trải nghiệm;
 + Hạnh phúc là sống vì người khác;
 + Hạnh phúc là hài hòa giữa lợi ích của cá nhân và cộng đồng 
 * Vì sao giới trẻ hiện nay lại có những quan niệm khác nhau về hạnh phúc?
 - Thời đại mà kinh tế xã hội ngày càng phát triển, con người dễ coi trọng lối sống vật chất, vì vậy dễ nảy sinh quan niệm hạnh phúc là hưởng thụ.
 - Thời đại ngày nay cũng đặt ra nhiều thách thức, cơ hội, vì vậy giới trẻ cũng năng động hơn, dám sống dám trải nghiệm, dám hi sinh vì người khác 
(3) - Bài học nhận thức và hành động:
 - Cần có những quan niệm đúng đắn về hạnh phúc.
 - Luôn hoàn thiện mình để hướng tới một hạnh phúc chân chính.
d) Sáng tạo:
 Có nhiều cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo (viết câu, sử dụng từ ngữ, hình ảnh và các yếu tố biểu cảm, ) ; thể hiện được quan điểm và thái độ riêng, sâu sắc nhưng không trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. 
e) Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo đúng chuẩn tiếng Việt.
Tổng điểm
Câu
Nội dung
2
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài “Sóng” của nữ sĩ Xuân Quỳnh:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương” 
a) Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận:
Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b) Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: 
 Vẻ đẹp trong tình yêu của người phụ nữ qua đoạn thơ: nỗi nhớ và lòng thủy chung.
c) Triển khai vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm phù hợp:
(1) - Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn thơ:
- Xuân Quỳnh: là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca chống Mĩ.
 Thơ của chị là tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khao khát hạnh phúc đời thường, bình dị; nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu.
- “Sóng”: Sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968). Là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
- Đoạn thơ trích nằm ở giữa của bài thơ, khắc họa rõ nét nỗi nhớ mong, lòng thủy chung trong tình yêu.
(2) - Sáu câu thơ đầu:
- Nỗi nhớ bao trùm cả không gian và thời gian: đối lập: lòng sâu-mặt nước, ngày –đêm.
- Nỗi nhớ thường trực, không chỉ tồn tại khi thức mà cả khi ngủ, len lỏi cả vào trong giấc mơ, trong tiềm thức (cả trong mơ còn thức).
- Nỗi nhớ của một tình yêu mãnh liệt (ngày đêm không ngủ được).
- Mượn hình tượng sóng để nói lên nỗi nhớ vẫn chưa đủ, chưa thỏa, nhà thơ trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ của mình (Lòng em nhớ đến anh).
-> Cách diễn đạt nỗi nhớ của Xuân Quỳnh thật là độc đáo , nhà thơ bộc lộ thẳng thắn nỗi nhớ của mình trong tình yêu. Nỗi nhớ cứ tồn tại , cứ hiện diện trong tâm hồn, nó không hề lắng xuống mà trào dâng mãnh liệt, quay quắt khôn nguôi.
(3) - Bốn câu cuối:
- Khẳng định lòng thủy chung: dù ở phương nào, nơi nào cũng chỉ hướng về anh –một phương.
- Phương bắc, phương nam là phương của đất trời, phương anh chính là phương tâm trạng, “phương” của người phụ nữ đang yêu say đắm, thiết tha.
(4) - Một số điểm đặc sắc về mặt nghệ thuật của đoạn thơ:
- Thể thơ năm chữ được dùng một cách sáng tạo, thể hiện nhịp của sóng biển, nhịp lòng của thi sĩ.
- Các biện pháp điệp từ, điệp cú pháp, tương phản góp phần tạo nên nhịp điệu nồng nàn, say đắm, thích hợp cho việc diễn tả nỗi nhớ mãnh liệt: con sóng (3 lần), dưới lòng sâu- trên mặt nước, dẫu xuôi-dẫu ngược; cách nói ngược: xuôi bắc – ngược nam nhằm diễn tả những khó khăn trắc trở trong cuộc sống.
- Đánh giá chung về đoạn thơ, nêu suy nghĩ của bản thân.
d) Sáng tạo:
Có nhiều cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo (viết câu, sử dụng từ ngữ, hình ảnh và các yếu tố biểu cảm, ) ; thể hiện được quan điểm và thái độ riêng, sâu sắc nhưng không trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. 
e) Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo đúng chuẩn tiếng Việt.
Tổng điểm
ĐỀ THAM KHẢO 2 
Môn thi: Ngữ văn 12 - CB
I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi:
 Nước mắt này chẳng muốn rớt đâu con
Về đi thôi, bữa cơm chiều vẫn đợi
Cây khế già, cây xoan nâu cứ hỏi 
Dáng yêu thương sao lạc mãi chưa về? 
Áo con xanh và mái tóc còn xanh
Như lá đang xuân, sao lìa cành bất chợt?
Mẹ hỏi trời, trời mưa nhòe tấm tức
Mẹ hỏi đất, đất câm nín không hay. 
Chiếc áo sờn, hơi ấm vẫn còn đây
Mẹ cầm trên tay – bế bồng thơ ấu
Quản gì đâu bao mồ hôi xương máu
Cho hôm nay con khôn lớn hình hài
Để hoàng hôn đời mẹ vẫn thấy nắng ban mai
Lấp lánh mắt con khoác trên mình cảnh phục
Người chiến sĩ sẽ vì dân vì nước
Nối gót cha ông, yêu dòng máu Lạc Hồng. [ ]
Đất nước tự hào vì có các con
Nhịp trái tim đập nhịp bình yên sông núi
Ngủ đi con, cho mẹ ru lần cuối
Giấc thảnh thơi bay đến những mặt trời.
(Trích Ngủ đi con, cho mẹ ru lần cuối - Lương Đình Khoa)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích trên.
Câu 2. Chỉ ra và nếu tác dụng của biện pháp tu từ trong hai câu thơ sau: 
Áo con xanh và mái tóc còn xanh
Như lá đang xuân, sao lìa cành bất chợt?
Câu 3. Anh chị hiểu như thế nào về hai câu thơ: Đất nước tự hào vì có các con - Nhịp trái tim đập nhịp bình yên sông núi
Câu 4. Nêu cảm nhận của anh/chị về tấm lòng người mẹ trong đoạn trích trên? 
PHẦN II: LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Qua đoạn trích phần Đọc hiểu, anh (chị) hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự hi sinh của những người lính giữa thời bình?
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận về vẻ hùng vĩ, dữ dội của con sông Đà trong tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân.
HẾT
HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT
PHẦN
CÂU
NỘI DUNG
I
ĐỌC HIỂU
1
Biểu cảm
2
Biện pháp:
+ So sánh: người lính với lá đang xuân
+ Câu hỏi tu từ: sao lìa cành bất chợt?
Tác dụng:
+ Gợi hình, gợi cảm cho câu thơ
+ Hình ảnh người lính trẻ đã bất ngờ hi sinh
+ Thấy được nỗi đau đớn của người mẹ, không dám tin vào sự thật người con đã hi sinh.
3
- Tự hào trước sự hi sinh của của các anh
Sự hi sinh của các anh mang lại bình yên cho đất nước.
4
Mẹ bao vất vả mồ hôi xương máu nuôi lớn con thành người chiến sĩ công an, giờ đây khi con hi sinh mẹ không khỏi đau đớn, xót xa.
Mẹ cố nén những dòng nước mắt, tự hào vì sự hi sinh của con mang lại bình yên cho đất nước, hát ru con về với đất mẹ.
Qua đó thấy được tấm lòng đầy tình yêu thương của mẹ
II
LÀM VĂN
1
Hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự hi sinh của những người lính giữa thời bình?
Yêu cầu chung
- Câu này kiểm tra năng lực viết đoạn nghị luận xã hội, đòi hỏi thí sinh phải huy động những hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày tỏ thái độ và chính kiến của mình để làm bài. 
-Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng; được tự do bày tỏ chủ kiến của mình nhưng phải có thái độ chân thành, nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Yêu cầu cụ thể
Hình thức: 
Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ. 
Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...
Nội dung.
Nêu vấn đề cần nghị luận: sự hi sinh của những người lính giữa thời bình?
Giải thích:
Hi sinh là vì người khác mà chịu sự thiệt thòi về bản thân mình. Đó là những suy nghĩ, hành động tự nguyện vì người khác, không vụ lợi cá nhân, đặt lợi ích của người khác lên trên lợi ích của bản thân và có thể hi sinh tính mạng của mình vì sự sống của người khác.
Những tưởng những sự hi sinh mất mát chỉ có trong chiến tranh, ấy vậy mà, ngay giữa thời bình, vẫn có biết bao người lính đã ngã xuống, hi sinh thân mình vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự bình yên của đất nước.
Bàn luận: Có thể tham khảo ý sau:
Khi bom đạn chiến tranh đã qua đi, đức hi sinh của con người vẫn luôn được thể hiện trong cuộc sống thường nhật, cảm động nhát là hình ảnh những người lính 
+ Họ là những người lính hi sinh khi làm nhiệm vụ: đó là những chiến sĩ hi sinh khi bảo vệ sân bay Miếu Môn ở Đồng Tâm, là hai chiến sĩ công an Đà Nẵng hi sinh khi truy đuổi tội phạm Có những người ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ.
+ Trong thời kì dịch bệnh, sẵn sàng bắt gặp những người lính không ngại khó, ngại khổ trong những khu cách li 
Sự hi sinh của họ đã trở thành lí tưởng sống. Đối với họ, sống là cống hiến, là hi sinh để có thể mang lại hạnh phúc cho đồng bào, dân tộc. Bao nhiêu gian nan, khổ cực cũng không thể khiến họ lùi bước.
Bài học nhận thức và hành động:
Nhận thức được lí tưởng sống tốt đẹp, vị tha, nhân ái
Liên hệ bản thân
2
Cảm nhận về vẻ hùng vĩ, dữ dội của con sông Đà
Yêu cầu chung:
- Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học, đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về tác phẩm văn học, lí luận văn học, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng cảm thụ văn chương để làm bài.. .
-Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng, không được thoát li văn bản tác phẩm.
Yêu cầu cụ thể
a
Đầy đủ bố cục 3 phần
b
Khái quát về tác giả, tác phẩm
Tác giả
Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp
Là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, tài hoa, uyên bác, có cá tính độc đáo.
Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại song đặc biệt thành công ở thể tùy bút.
Tác phẩm: 
“Người lái đò Sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác sau những chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn. Bài tùy bút được in trong tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960. 
Ở đó, nhà văn khám phá ra chất vàng của thiên nhiên cũng như thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn người lao động.
c
Vẻ hung bạo dữ dội của Sông Đà
Lời đề từ
Muốn định hướng người đọc hiểu rõ ý tưởng của mình, thể hiện tình cảm với con Sông Đà
Đặc biệt lời đề từ “Chúng thủy bắc lưu”: thể hiện sự độc đáo của con SĐ ->NT thích khám phá sự mới lạ, khác biệt.
Thấy được tư tưởng của bài tùy bút đồn thời thấy được NT là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo riêng
Hùng vĩ thể hiện ở những quãng sông hẹp với cảnh đã bờ sông dựng vách thành
-Với con mắt của nhà điêu khắc, Nguyễn Tuân đã có những so sánh liên tưởng đầy mới lạ và bất ngờ. 
+ “ cảnh đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. 
+ “ Có vách đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu”. 
+ Có những quãng lòng sông hẹp tới mức con nay con hổ có thể vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia. 
+ Nhà văn tiếp tục tấn công vào giác quan của người đọc khi ông nói ngồi trên khoang đò quãng ấy đã mùa hè vẫn thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hẻm một con ngõ mà ngóng vọng lên cái cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy vừa tắt phụt ánh điện.
Bằng những lời văn gây ấn tượng mạnh pha chút hóm hỉnh, những trang văn của NT đã khiến người đọc liên tưởng đến những bài ca dao khi nói về mơ ước xưa của cô gái khi yêu: “Ước gì song rộng một gang – Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”. Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên khung cảnh một dòng sông heo hút đến rợn ngợp.
Đặc tả mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt bất cứ con thuyền nào tóm được qua đây”. 
Những âm thanh của gió của nước và gió đã tạo thành một bản hợp xướng hùng vĩ đang đang ầm ập, đổ sập lao tới. - Nghệ thuật điệp cấu trúc và các động từ mạnh -> câu chữ của Nguyễn Tuân dường như cũng xô đuổi nhau trong cái âm hưởng cuồn cuộn gùn ghè của nước sông Đà. 
Đặc điểm ấy của khúc sông khiến nó giống như một kẻ lưu manh lúc nào cũng thích gây gổ, lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt người lái đò.
Hung bạo nhất là ở những cái hút nước chết người.
Ấn tượng về sự sợ hãi và chết chóc được tạo ra rất rõ ở đoạn văn nói về những cái hút nước. 
+ Về hình thù nó giống như cái giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm móng câu. 
+ Về âm thanh nước ở đây thở và kêu như của cống cái bị sặc, nó kêu ặc ặc như tiếng rót dầu sôi. 
+ Với cách dùng từ tượng thanh “ ặc ặc”, nhà văn Nguyễn Tuân đã khiến người đọc như được nghe thấy âm thanh của một con thủy quay khổng lồ đang bị bóp cổ. Điều đó đã khiến chúng ta sởn gai ốc khi nghe cái âm thanh quái lạ của cái hút nước này.
Sự chết chóc hiện ra khi nhà văn so sánh “ trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”, rồi tường thuật “ có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
Thay vì kể lại nỗi sợ hãi, Nguyễn Tuân đã bắt người đọc phải chiêm nghiệm tự mình phải trải qua nỗi sợ hãi khi nhà văn nhấn mạnh cái dữ dội ấy qua góc nhìn điện ảnh: Ông hình dung có một nhà quay phim nào đó dũng cảm dám ngồi trên chiếc thuyền thúng cùng với máy quay, để cái hút nó hút cả thuyền, cả người và máy quay xuống tít đáy thế rồi quay ngược ống kính lên thu ảnh. Cái thước phim màu quay tít ấy đã truyền cảm giác sợ hãi đặc biệt cho người đọc. Nó giống như chúng ta đang sợ hãi ghì chặt lấy mép ghế khi phải ngồi xem cái cảnh tượng hãi hùng của một thước phim 3D.
Với phong cách viết tài hoa kết hợp với vốn kiến thức uyên bác Nguyễn Tuân đã tạo ấn tượng mạnh mẽ mạnh vào giác quan người đọc một hình ảnh dữ dội đến khủng khiếp khi miêu tả những hút nước của sông Đà.
Âm thanh tiếng nước thác
- Thác ở đây từ rất xa đã nghe thấy âm thanh hãi hùng ghê rợn của nước. Âm thanh ấy khi thì như là “oán trách gì” rồi lại như là “ van xin”, rồi lại như là khiêu khích, giọng “gằn và chế nhạo”. 
-> Một câu văn ngắn mà đủ các cung bậc âm thanh của tiếng thác vừa thể hiện vốn từ phong phú vùa thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế của tác giả.
- Không chỉ như vậy âm thanh của thác nước còn được so sánh âm thanh “ rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. 
-> Bằng nghệ thuật so sánh kết hợp với liên tưởng mở rộng nhà văn Nguyễn Tuân đã giúp người đọc như nghe thấu được những âm thanh đa dạng của thác nước Sông Đà từ đó khắc họa tính cách hung bạo của con sông.
- Với việc sử dụng những động từ mạnh: giống nổ lửa, phá tuông, gầm thét, cháy bùng bùng khiến câu chữ như đập mạnh vào giác quan người đọc. Từ đó tính chất hung bạo của con sông như hằn lên nổi lên thành hình thành khối đang gào thét trong muôn vàn âm thanh. Cảnh vật cũng như náo động, chuyển động qua hàng loạt ngôn từ nhân hóa.
- Lối chơi ngông trong cách nói của Nguyễn Tuân:
+ Trong ngũ hành, thủy và hỏa vốn là hai yếu tố tương khắc với nhau, dân gian có câu “ kỵ nhau như nước với lửa”. Vậy mà ở 

Tài liệu đính kèm:

  • docxde_cuong_on_thi_mon_ngu_van_lop_12.docx