Phân tích tác phẩm "Việt Bắc"

Phân tích tác phẩm "Việt Bắc"

I. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác và vị trí tác phẩm

- Việt Bắc là quê hương cách mạng, căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở đùm bọc cho Đảng, Chính Phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ. Sau chiến thắng ĐBP, tháng 10/1954, các cơ quan Trung Ưong của đảng và chính phủ rời chiển khu VB về thủ đô HN. Nhân sự kiện trọng đại này, Tố Hữu viết bài thơ “VB”.

- Bài thơ viết tháng 10/1954, được in trong tập Việt Bắc (1945-1954)

II. Phân tích cụ thể

1. Khái quát:

Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940, gồm sáu tỉnh viết tắt là “Cao — Bắc ~ Lạng— Thái - Tuyên — Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình. Sau chiến thắng Điện Biên, Pháp phải ký hiệp định Giơneve trả lại Hà Nội. Nay cán bộ phải về xuôi tiếp tục nhiệm vụ cách mạng. Buổi chia tay ấy, biết bao kỷ niệm cứ ùa về xoắn xuýt vào lòng khiến người đi kẻ ở ray rứt, bồn chồn không yên.

Cái độc đáo của Tố Hữu chính là mượn thể thơ dân tộc, thể thơ lục bát để diễn tả tình cảm cách mạng (từ xưa tới nay lục bát là thể thơ dễ đi vào lòng người nhất bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó. Nếu dùng để diễn tả tình cảm thì thật không còn gì hay bằng). Hay hơn nữa là việc tác giả vận dụng thành công lối hát đối đáp trao duyên trong ca dao để ấn tống vào buổi chia tay lịch sử. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi. Vì thế cho nên, xuyên suốt toàn bài thơ ta cứ ngỡ như khúc hát ân tình cách mạng ngân nga sâu lắng vang lắng từ những đôi lứa yêu nhau.

 

docx 24 trang hoaivy21 9920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Phân tích tác phẩm "Việt Bắc"", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tác phẩm
Hoàn cảnh sáng tác và vị trí tác phẩm
Việt Bắc là quê hương cách mạng, căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở đùm bọc cho Đảng, Chính Phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ. Sau chiến thắng ĐBP, tháng 10/1954, các cơ quan Trung Ưong của đảng và chính phủ rời chiển khu VB về thủ đô HN. Nhân sự kiện trọng đại này, Tố Hữu viết bài thơ “VB”.
Bài thơ viết tháng 10/1954, được in trong tập Việt Bắc (1945-1954)
Phân tích cụ thể
1. Khái quát: 
Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940, gồm sáu tỉnh viết tắt là “Cao — Bắc ~ Lạng— Thái - Tuyên — Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình. Sau chiến thắng Điện Biên, Pháp phải ký hiệp định Giơneve trả lại Hà Nội. Nay cán bộ phải về xuôi tiếp tục nhiệm vụ cách mạng. Buổi chia tay ấy, biết bao kỷ niệm cứ ùa về xoắn xuýt vào lòng khiến người đi kẻ ở ray rứt, bồn chồn không yên. 
Cái độc đáo của Tố Hữu chính là mượn thể thơ dân tộc, thể thơ lục bát để diễn tả tình cảm cách mạng (từ xưa tới nay lục bát là thể thơ dễ đi vào lòng người nhất bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó. Nếu dùng để diễn tả tình cảm thì thật không còn gì hay bằng). Hay hơn nữa là việc tác giả vận dụng thành công lối hát đối đáp trao duyên trong ca dao để ấn tống vào buổi chia tay lịch sử. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi. Vì thế cho nên, xuyên suốt toàn bài thơ ta cứ ngỡ như khúc hát ân tình cách mạng ngân nga sâu lắng vang lắng từ những đôi lứa yêu nhau.
Phân Tích 8 câu đầu:
 Hoàng Phi 
MB: Bàn về tình yêu Tổ quốc Tố Hữu đã từng tâm sự rằng: “Tôi yêu đất nước và nhân dân tôi, tôi viết về đất nước và nhân dân tôi như viết về người đàn bà tôi yêu”. Thật vậy , thấm đẫm trong mỗi trang thơ của Tố Hữu là một bản tình ca về quê hương Tổ quốc và người dân đất Việt, là những khúc hát yêu thương thấm đượm nghĩa tình. “Việt Bắc” là bài thơ thể hiện rõ nhất tình yêu bất diệt ấy của nhà thơ mà cụ thể là đoạn thơ sau: (phần ba chấm là yêu cầu của đề bài)
(8 câu đầu): khung cảnh và tâm trạng của cuộc chia tay giữa CB và VB (kẻ ở người đi)
*dẫn ý
ànhắc đến VB là nhắc đến cội nguồn của CM, nhắc đến mảnh đất nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỉ niệm khó quên của một thời kì CM gian khổ nhưng rất hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Và có thế sợi nhớ, sợi thương bao ngày cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi “Ta – mình” của đôi lính yêu nhau. Đúng thế như lời thơ Chế Lan Viên từng viết: “khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! VB đã hóa tâm hồn dạt dào nghĩa yêu thương trong hồn thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăp áp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.
Lời ướm hỏi của VB: 4 câu đầu: là lời của Việt Bắc ướm hỏi, khơi gợi kỷ niệm về một giai đoạn đã qua, Về không gian nguồn cội, nghĩa tình .Qua đó thể hiện tâm trạng của người ở lại:
àVB là một trong những hoài niệm lớn của những ngày kháng chiến, những hoài niệm được đặt trong không gian thẫm đẫm chất trữ tình. Cho nên ngay từ những dòng chữ mở đầu, VB mở ra khung cảnh chia tay giữa núi rừng bạt ngàn, trong đó 4 dòng thơ đầu là tiếng nói VB với người miền xuôi, và cũng 4 câu đầu như vậy viết về cảm xúc của người miền xuôi đáp lại người VB. Kết cấu đối đáp tạo nên những suy nghĩ về tấm lòng người ở người đi thủy chung sắt son vô cùng.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?”
Sử dụng lời đối đáp “ta ó mình”, quen thuộc trong ca dao, dân ca:
+ VB là bài thơ về mặt hình thức có kết cấu rất đặc biệt, là đối thoại ( VBó CB) nhưng thực chất là độc thoại nội tâm sâu sắc của chủ thể trữ tình. Lối đối đáp “mình” “ta” là lối đối đáp vô cùng quen thuộc trong ca dao, dân ca, giữa nam và nữ (anh-em, vợ- chồng) để nói về tình yêu đôi lứa, tình cảm riêng tư. Lối đối đáp tựa như khúc hát trữ tình của các liền anh, liền chị trong “giã bạn” hay “tiễn dặn người yêu”. Ở đây, TH dùng lối đối đáp này để diễn tả về tình cảm lớn, tình cảm cộng đồng, không cá nhân: lòng yêu nước, sự gắn bó giữa nhân dân với cán bộ. 
*Liên Hệ:
Chia ly là đề tài phổ biến trong thơ ca xưa nay. Lí Bạch đã có những câu thơ về chia ly cách đây 5 thế kỉ:
“Chia phôi khác cả nỗi lòng
Người như mây nổi, kẻ trông bóng tà”
Nguyễn Bính cũng có những câu thơ đầy da diết:
“Hôm qua xuống bên xuôi đồ
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu... cánh buồm nâu... cánh buồm. ”
Đi vào đề tài này, Tố Hữu đặt thử thách cho ngòi bút của chính mình nhưng là một tiếng thơ trữ tình chính trị, Tổ Hữu tạo ra một cuộc chia tay giữa số đông với số đông, cuộc chia tay chưa từng có trong lịch sử, cuộc chia tay giữa Đảng, Chính Phủ với nhân dân Việt Bắc và ngược lại.
+ Sử dụng sáng tạo lối đối đáp này TH đã truyền tải được 1 nội dung chính trị quan trọng là cuộc chia tay lưu luyến, nghĩa tình giữa kẻ ở và người đi thắm nồng, keo sơn mà ta đã từng bắt gặp đâu đó trong ca dao, dân ca:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ
Sử dụng điêp từ “nhớ”: điệp từ nhớ xuất hiện tới 4 lần trong khổ thơ với nhiều sắc thái khác nhau làm cho nỗi nhớ thêm cồn cào da diết”
 Hoàng Phi 
+ Nhớ “15 năm ấy”: nhớ đến cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940) và năm 1941 Bác Hồ về nước chọn VB làm căn cứ địa CM cho đến cuộc kháng chiến chống pháp giành thắng lợi 1954. Thời gian ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954 vừa đúng mười lăm năm. Đó là mười lăm năm “Mình đâu ta đó đắng cay ngọt bùi”. Mười lăm năm có họa cùng chia có phúc cùng hưởng, mười lăm năm “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”, mười lăm năm “Bát cơm chấm muối mỗi thù nặng vai”... làm sao kể xiết được bao nghĩa bao tình. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt.
*Liên Hệ + Lý luận văn học
+ Mượn ý thơ trong truyện Kiều mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình VB khẳng định tình cảm thủy chung, gắn bó mười lăm năm ấy thiết tha măn nồng.Tình cảm ấy bền vững theo thời gian.
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét rằng: “ Câu thơ “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” mang dáng dấp một câu Kiều “Nhưng là rày ước mai ao mười lăm năm biết bao nhiêu tình”. Kim Kiều xa cách nhau mười lăm năm mà vẫn "biết bao nhiêu tình” nói chỉ đến Cán bộ và nhân dân Việt Bắc đã có thời gian gắn bó, sát cánh bên nhau những mười lăm năm”. 
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền cho rằng: “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn"
+ Ngôn ngữ của đoạn thơ không chỉ đằm thắm trong những từ xưng hô đầy sáng tạo mà còn ở những từ ngữ khơi gợi bao nhiêu nỗi nhớ. 4 chữ “mình” gắn liền với 4 chữ “nhớ” trong 1 đoạn thơ. Nỗi nhớ ấy chẳng phải là nồn nàn thiêt tha lắm sao? Nỗi nhớ như là một dòng chảy xuyên suốt 4 câu thơ, đồng thời tác giả trực tiếp sử dụng những từ ngữ biểu hiện trạng thái cảm xúc như “thiết tha”, “mặn nồng”. Thậm chí có những từ tưởng chừng chỉ là một hư từ, rỗng về nhĩa như chữ “ấy” nhưng nó thật có giá trị, nó làm cho khái niệm thời gian 15 năm trở thành 15 năm kỉ niệm, gợi tới câu thơ của Lưu Trọng Lư:
“Cái thủa ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm hồ dễ ai quên”
* Hai câu đầu là gợi nhắc kỷ niệm mười lăm đêm gắn bó, hai câu sau là lời nhắc nhớ chân tình, lời dặn dò kín đáo mà rất đỗi thiết tha:
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?”
+ Nhớ “núi”, nhớ “nguồn”: là nhớ đến không gian, thiên nhiên của VB, nhớ những kỉ niệm đã từng gắn bó.
+ Điệp từ “mình” để nhấn mạnh, nhắn gửi người về.
Sử dụng cặp đại từ “mình”, “ta” một cách sáng tạo:
+ Một sự kiện chính trị đã được chuyển hóa thành thơ ca theo cách nhìn tâm tình hóa, đây là 1 nét đặc trưng trong lối thơ trữ tình – chính trị của TH. Việc “dời đô” (VB là thủ đô của các cuộc kháng chiến, TH gọi VB là “thủ đô gió ngàn”) đã thành câu chuyện ân tình, thùy chung của cách mạng với người dân miền núi VB, với quá khứ, với chính mình tác giả.
+ Trong tiếng việt thì đại từ “mình” và “ta” được dùng để chỉ ngôi thứ nhất nhưng ở đây, TH lại dùng khi thì ở ngôi thứ nhất, khi thì ngôi thứ ba để nhấn mạnh rằng mình chính là ta mà ta cũng chính là mình, tuy 2 nhưng chỉ là 1, trong cán bộ có nhân nhân và trong nhân dân có cán bộ, thủy chung, son sắt một lòng.
“mình về mình có nhớ ta”
Hay
“mình về mình có nhớ không”
 Hoàng Phi 
Âm điệu các từ ta,tha,nồng,không,sông bắt vần với nhau gợi sự vang xa, lan tỏa, mênh mang một nỗi nhớ trong phút chia tay.
Người ở lại hỏi "Mình có nhớ không?" là câu hỏi tụ từ, hỏi không phải để tìm câu trả lời mà hỏi để nhắc nhở. Về Hà Nội rồi, thấy cây thì phải nhớ đến núi rừng chiến khu, thấy sông thì: phải nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc này cho thấy được lời dặn dò kín đáo rất đỗi chân thành: Việt Bắc là cội nguồn CM. "Quê hương cách mạng dựng nên Cộng Hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Xin người về đừng quên cội quên nguồn mà hãy luôn nhớ về nguồn cội. 
+ Đạo lí nghĩa tình - nét đẹp trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam được nhà thơ Tố Hữu nhắn gửi một cách vô cùng khéo léo: Đạo lí “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống trước nhớ nguồn”, sống ở hiện tại đừng quên quá khứ, có được ngày hôm nay hòa bình phải nhớ đến sự hi sinh của biết bao người đã anh dũng năm xuống, phải biết hướng về gốc gác, hướng về cội nguồn, hướng vê cái nôi đã cho ta hình hài. Đây cũng là một lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn mà nhà thơ Tố Hữu nêu cao như kim chỉ nam trong suốt cuộc đời mình:
“Ngọt bùi nhớ Lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm.”
Lời chia tay lại có kết cấu của hai câu hỏi. 
+ Một câu hỏi bao trùm cả thời gian: Có nhớ “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, 
+ một câu hỏi bao trùm cả không gian: Có nhớ “Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhờ nguồn”. 
Đó là những câu hỏi rất giá trị tu từ, nó như xoáy sâu vào kí ức của người miền xuôi, nó như dồn nén bao nhiêu kỉ niệm của mười lăm năm sâu nặng nghiã tình với những buồn vui, những gian khổn mà gắn bó từ những ngày ngọn lửa hồng của CM được chính Chủ Tịch HCM khơi lên từ Pắc Bó, cho tới những ngày độc lập rồi kháng chiến thành công. Đó cũng là 15 năm với nhiêu thiết tha mặn nồng. Trong khí đó câu hỏi: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”, lại bao trùm cả không gian, không phải gợi nhớ kỉ niệm mà làm cho khoảng cách không gian giữa miền xuôi và VB như xích lại với nhau trong một chữ nhớ “nhìn cây nhớ núi”; “nhìn sông nhớ nguồn”. “Cây” và “sông” là biểu tượng của không gian miền xuôi vời vợi, với vùng núi cao trong biểu tượng “núi”, “nguồn”. Chữ “nhớ” đặt giữa “câu” và “núi”, “sông” và “nguồn” như có sự kết nối không gian cách trở vời vợi ấy trong tâm tưởng, như xóa nhòa sự chia li. 
àVB là tiếng nói trữ tình giữa khung cảnh chia tay của những người kháng chiến với đồng bào vùng núi cao, nhưng lại được mở đầu bằng tiếng nói của người miền ngược, Tố Hữu như muốn nói đến cái tình của đồng bào Việt Bác với Bác Hồ, Trung Ưong Đảng, những người kháng chiến thật sâu sắc biêt bao nhiêu, thủy chung đến chừng nào.
Lời người ra đi và tâm trạng buổi chia tay: 4 câu sau: là tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương, bịn rịn:
*Liên Hệ + lý luận:
àLà người, ai cũng có một miền đời để nhớ để thương. Có những mảnh đất tuy không phải là nơi chôn rau cắt rốn những vẫn không bao h phải trong tâm khảm. Bởi đó là máu thịt, là nơi ghi lại những kỉ niệm đẹp nhất của một đời người. Như Chế Lan Viên đã triết lý: “khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
-----Việt Bắc trong giây phút chia ly ấy đã “hóa tâm hồn” trong lòng người cán bộ. Hai từ láy bâng khuâng và bồn chồn đã góp phần làm nên tâm trạng người ra đi. “Bâng khuâng” có nghĩa là nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn (buồn vì phải xa VB, vui vì được trở lại quê hương của mình) mà buồn nhiều hơn vui. 
*Nét cổ điển: - nằm trong kết cấu của mạch đối đáp, sau tiếng hát đưa tiễn của người VB đầy những yêu thương, mặn nồng là lời đáp của người về xuôi:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay ”
*Lý Luận:
Mới đọc 3 câu thơ dường như khung cảnh tiễn đưa này chúng ta đã gặp và phảng phất đâu đó trong văn chương nhưng cũng có nét mới, nét hiện đại. Là sự li biệt giữa Thúy Kiều và Kim Trọng hay cuộc chia tay 1 đi không trở lại của người Chinh Phu và Chinh Phụ trong “Chinh Phụ Ngâm” (ĐTC). Nếu như người VB gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nỗi nhớ thì trong lời đối đáp của người Miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng da diết qua đại từ “mình”, “ta” thì người về xuổi lại sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai” để khẳng định sự gắn bó với người ở lại. Ai có thể là đại từ để hỏi như câu thơ trong bài thơ ĐTVD “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” nhưng ở đây chính là đại từ phiếm chỉ, rất gần với cách nói của câu ca dao: “Nhớ ai bồi hồi bồi hồi” hay như Tú Xương là một nhà thơ trào phúng bậc nhất của VHVN đầu thế kỉ XX cũng rất trữ tình tha thiết trong chữ “ai” như vậy: “Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”, “Áo bông ai ướt khăn đầu ai khổ”. Đó là những chữ “ai” đầy vẻ yêu thương, thắm thiết.
+ “Bồn chồn” là từ láy diễn tả tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng ngập ngừng, bịn rịn không muốn chia xa “Bước đi một bước lâu lâu lại dừng”.
-Còn người về xuôi trước những tiếng tha thiết của người đưa tiễn đã xúc động ra sao? TH đã diễn tả một cách hết sức chính xác tâm trạng của người về xuôi qua những chữ “Bâng Khuâng”, “bồn chồn”. “Bâng khuâng” là tâm trạng chất chứa những nhớ thương bao trùm cả không gian với bao kỉ niệm, không dừng lại ở 1 kỉ niệm nào. Còn “bồn chồn” cũng là từ chỉ tâm trạng nhớ thương, nhưng đó là tâm trạng không thể kìm nén bên trong mà biểu hiện qua bên ngoài như nét mặt bồn chồn mong đợi. Như nỗi nhớ người yêu trong ca dao, dân ca “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/Như đứng đống lửa như ngồi đống than?”.
 Hoàng Phi 
- Hình ảnh “Aó chàm” đầy cảm động. Áo chàm là màu áo nghèo khổ, bình dị của người dân Việt Bắc là hình ảnh hoán dụ để chỉ con người Việt Bắc. Đó là những con người nghèo khổ “hắt hiu lau xám” nhưng luôn “đậm đà lòng son” thủy chung, mặn nồng, Chính màu áo ấy, con người ấy đã góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hỏi làm sao người đi có thể quên được màu áo ân tình ấy?
*Liên Hệ:
Trong cuộc chia li ở “Chinh Phụ Ngâm” của ĐTC cũng đã sử dụng hình ảnh “áo chàm”: “Aó chàng đỏ tựa ráng pha/ Ngựa chàng sắc trắng như là tuyến in” đã đem đến màu sắc cổ điển cho cuộc tiễn đưa. Dùng “áo chàm” để nói về người VB cũng để nói cả VB đang tiễn đưa những chiến sĩ về xuôi. Ta chợt nhớ câu thơ của Lưu Quang Vũ viết về bàn tay của những người yêu nhau:
“Khi chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn để lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta”
-Tâm trạng bâng khuâng bồn chồn ấy còn được thể hiện 1 cách hết sức tinh tế qua nhịp điệu 2 câu thơ tiếp theo:
“Áo chàm đưa buồi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay ”
Câu thơ “Cầm tay nhau biêt nói gì hôm nay” đầy tính chất biểu cảm. “Biết nói gì hôm nay...” không phải là không có gì để nói, có nhiều điều để nói lắm chứ (Mười lăm năm gắn bó nghĩa tình sao lại không có điều gì để nói được?). Không nói được vì xúc động nghẹn ngào không thốt đuợc nên lời. Những lời không nói ấy có lẽ đã nằm hết trong ba chữ “cầm tay nhau “, Cầm tay là biểu tượng của tình yêu thương đoàn,kết. Cầm tay đã đủ nói lên bao cảm xúc trong lòng rồi. Mặt khác, ba dấu chấmm lửng đặt ở cuối câu như càng tăng thêm cái tình cảm mặn nồng ấy. Nó giống như nốt lặng trong một khuôn nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngắn dài sâu lắng.
Câu thơ lục bát vốn có nhịp chẵn như nhịp thơ đều đặn của Ca dao VN, nhưng với 2 câu thơ này tác giả đã tạo nên những đột biến trong nhịp điệu như một cách đảo phách trong âm thanh, đột ngột chuyển sang những nhịp lẻ, như ta phân tích. Cách ngắt nhịp của câu thơ đã tạo nên 1 khoảng dừng, đây là giây phút bịn rịn, luyến lưu của tâm trạng, họ không nói nên lời mà chỉ có những cái bắt tay trong nghẹn ngào, những ánh mắt đầy cảm xúc đã nói elen tất cả. Đó chính là nhịp bồn chồn của bước đi. 
*Liên Hệ: Đoàn Thị Điểm trong “CPN Khúc” đã tả cái bồn chồn ấy bằng một câu thơ rất giàu hình ảnh:
“bước đi một bước dây dây lại dừng”
TH không tả mà lại dùng nhạc tính của câu thơ với nhịp lẻ liên tiếp nhau để diễn tả tâm trạng bồn chồn ấy. Ta thấy người đi và người ở dùng dằng bên nhau không nỡ dứt. như thế đôi bàn tay của người kẻ đi bịn rịn, không muốn rời xa.
“Đưa người ta không đưa sang sông
 ...
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
 (Tống Biệt Hành” – Thâm Tâm)
(Thêm: phân tích dấu “ ”)
*Nét hiện đại: cuộc tiến đưa có nhớ thương nhưng không buồn đau mà mang niềm vui, niềm tin của những con người đã làm nên chiến thắng. có nhớ thương đến cồn cào, da diết, có bồn chồn nhưng không hề đẫm lệ vì chia tay không phải để li biệt, để chia xa mãi mãi mà chia tay để tin tưởng hẹn ngày tái ngộ.
ààTổng kết nghệ thuật: “Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riềng thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. 
Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. 
 Hoàng Phi 
Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. 
Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (Hoán dụ, câu hỏi tu từ). 
Ngôn ngữ trong sáng, nhuân nhị, và có nhiêu nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta — Minh). Tiếng nói yêu thương- nét nôi bật trong phong cách thơ Tố Hữu - không có bài nào thấm thía hơn Việt Bắc.
à VB chỉ với tám dòng mở đầu, người đọc đã cảm nhận một cách khá đầy đủ âm hưởng chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu lắng. Gơi bao nghĩa tình yêu thương gắn bó. Ấn tượng để lại trong lòng bạn đọc đó chính là tình cảm giữa kẻ ở người đi được diễn tả bằng thể thơ lục bát đậm đà tính dân tộc. Qua đó bạn đọc hiểu sâu sắc hơn về tình cảm quân dân về nghĩa tình cách mạng (Cách mạng và nhân dân là hai yếu tố không thể tách rời). Đoạn thơ cũng là lời nhắc nhở hãy nhớ về Việt Bắc - Việt Bắc là quê hương của Cách mạng đã làm nên nên độc lập cho đất nước, non sông.
 Cùng với ngôn ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc trưng trữ tình chính trị của thơ TH
========================¯&========================
(12 câu tiếp): những kỉ niệm gian khổ, thiếu thốn của buổi đầu của cuộc kháng chiến
-Đoạn thơ gồm mười 12 dòng nhắc nhớ những ngày tháng gian khổ ở chiến khu VB, 12 dòng tạo thành sáu câu hỏi như khơ sâu vào những kỉ niệm đáng nhớ:
+ Chỉ 12 câu thơ nhưng đều xoáy sâu vào kỉ niệm của những ngày CM còn non yếu (còn trứng nước), tuy tươi vui, lạc quan nhưng cũng lắm gian nan, cơ cực. chính vì thế, điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại mang nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, là ghi nhớ, là nhắc nhớ .tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gài lại niềm thương xa cách: 
*Liên Hệ:
“thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
+ Có những câu hỏi gợi về những sinh hoạt gian khổ nhưng sâu nặng nghĩa tình:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùa”
Nhà thơ sử dụng rất độc đáo hàng loạt những hình ảnh lấy ra từ thực tế đời sống kháng chiến như “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mùa”, đó là đặc trưng của thiên nhiên VB trong những ngày khắc nghiệt, gợi ra những gian nan vất vả của những ngày kháng chiến. Ngoài ra, biện pháp liệt kê cùng hai từ “những, cùng” cho thấy những khó khăn diễn ra dồn dập, liên tục.
“Mình về có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”
“Miếng cơm chấm muối” là hình ảnh chân thực được rút ra từ kháng chiến đầy gian nan. Hình ảnh “mối thù nặng vai” đã cụ thể hóa, vật chất hóa mỗi thù của nhân dân ta với quân xâm lược.
Biện pháp tiểu đối giữa hai vế trong câu thơ “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” làm nổi bật giữa một bên là đời sống thiếu thôn, gian khổ, và một bên là lòng căm thù giặc oẳn nặng trên vai. Cách nói của Tố Hữu rất giàu hình ảnh. Mối thù là một tình cảm trừu tượng không thể thấy được, sờ được nhưng nói “mối thù nặng vai” thì cái điều trừu tượng kia đã được trọng lượng hóa một cách cụ thể. Một đời sống cực khổ thiếu thốn biết bao nhiêu thì lòng căm thù giặc sâu sắc bấy nhiêu.
Hai Hình ảnh “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” đối xứng và kết lại với nhau tạo nên một ý nghĩamới mẻ, sâu sa: mối tình đoàn kết chiến đấu cùng chung gian khổ, cùng mang một mối thù thực dân là cội nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng vẻ vang, chiến công chói lọi.
+ Có câu hỏi lại gợi về hình ảnh thiên nhiên gắn bó với đời sống sinh hoạt kháng chiến, giờ xa cách chúng cũng như mang hồn người và trở nên ngẩn ngơ, buồn vắng:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trán bùi để rụng, măng mai để giả
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
 Hoàng Phi 
Câu hỏi tu từ thứ nhất gợi tình cảm thiên nhiên với con người. Cách nói “Rừng núi nhớ ai” là nghệ thuật nhân hóa gợi nỗi niềm bâng khuâng da diết. “Rừng núi” lại là hoán dụ chỉ người Việt Bắc. Từ “ai” trong “nhớ ai” là chỉ người cán bộ. Câu thơ có hai hình ảnh Trám và măng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Tráắm và măng là lương thực chủ yếu của bộ đội ta khi còn ở Việt Bắc. Nay người đi rồi, trám để rụng, măng để già không người thu hái nên buồn nhớ mênh mông. Thiên nhiên mang nỗi buồn thiếu vắng. Qua đó để thấy, không chỉ con người nhớ nhung mà cảnh cũng mang nỗi bùi ngùi, bức bối như thúc vào lòng kẻ ở người đi. Thiên nhiên như cũng nặng tình nặng nghĩa với con người.
Cay đắng gian khổ không che lấp được nghĩa tình. Tác giả diễn đạt rất hay cái tình của dồng bào VB theo kiểu diễn đạt kín đáo nhưng tha thiết của ca dao. “Rừng núi” là cách nói hoán dụ để nói về ĐbVB. Nói “núi rừng nhớ ai” là muốn nói ĐbVB nhớ người cán bộ kháng chiến.
Tại sao “trám bùi để rụng, măng mai để già?” Vì ĐbVB muốn để giành những món ăn này cho người cán bộ kháng chiến với ước mong có ngày họ sẽ trở lại. Đó là tấm lòng, là ân tình của ĐbVB với CM. Người ra đi rồi thì tram bùi, măng mai biết giành cho ai, chỉ để rụng, để già mà thôi.
Câu hỏi tu từ thứ hai gợi nhớ đến con người Việt Bảo “hắt hiu lau xám / đậm đà lòng son”. Câu thơ có hai hình ảnh tương phản: ngôi nhà lá đơn sơ, mộc mạc, nghèo khổ trong dáng vẻ “hắt hiu lau xám “ gợi nỗi buồn hiu quạnh.
Bên trong “những nhà” ấy lại chứa đựng tấm lòng son sắt thủy chung, nghĩa tình của nhân dân Việt Bắc đối với cách mạng. Đó là nghĩa tình sâu nặng của những con người đã góp phần làm nên Điện Biên "lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”.
Câu thơ “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” là câu thơ tuyệt hay. Cái hay trước hết là sự chân thực, giản dị. Những mái nhà lợp bằng tranh, bằng lá cọ nghèo nàn, những ngọn lau xám hắt hiu trc gió, những bữa ăn chỉ toàn bằng khoai, bằng sắn ..nhưng tấm lòng của người dân đối với CM, với kháng chiến thật “đậm đà lòng son”, thủy chung ân nghĩa.
“Hắt hiu lau xám” đối với “đậm đà lòng son” cũng với thủ pháp đảo ngữ càng làm nổi rõ tấm lòng cao quý, đùm bọc, chở che của nhân dân với cán bộ. hoàn cảnh càng gian ngày, thiếu thôn, lòng dân đối vs CM, với kháng chiến càng son sắt, gắn bó.
Việt Bắc gợi nhắc những sự kiện lịch sử gắn liền với những địa danh, những tên gọÏ đã trở thành điểm mốc của chiến khu: Nhớ VB là nhớ đến vùng căn cứ địa CM, mảnh đất chiến khu gắn liền với những sự kiện quan trọng trọng đại trong lịch sử CM VN:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
+ “Núi non” là hình ảnh hoán dụ để chỉ đồng bào VB vì họ là những con người sống ở nơi này. Thiên nhiên, mảnh đất, con người biết bao ân tình, biết bao kỉ niệm người đi làm sao có thể quên.
+ Đó là khi kháng Nhật. thuở còn Việt Minh. Tại VB, VN độc lập đồng minh hội, tức Mặt trận Việt Minh được thành lập vào năm 1941 để lãnh đạo toàn dân kháng Nhật chống Pháp. Những địa danh nơi đây đã đi vào CMVN, cây đa Tân trào, mái đình hồng thái là nơi họp quốc dân đại hội vào tháng 8 năm 1945. Dưới gốc đa cổ thụ, cách đình tân trào 100m là nơi làm lễ xuất quân của quân đội VN tuyên truyền giải phóng quân. Khi Tố Hữu làm thơ về những phiên họp của Chính phủ, câu thơ trang trọng và sang sảng, đầy ánh sáng của buổi trưa rực rỡ trong tâm hồn nhà thơ. Ánh sáng ấy dẫn đến một đoạn kết, có thể là cái nút động của cả bài thơ khi nhìn về “mười lăm năm ấy”: *Liên Hệ:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi 
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng Hòa 
(Theo Nguyễn Đình Thi)
+ trong câu “mình đi mình có nhớ mình” từ mình xuất hiện 3 lần, có tính đa nghĩa, thật đặc biệt. “Mình” vừa là người ra đi, vừa là phân thân chủ thể trữ tình. “Mình đi” là cán bộ, “mình có nhớ mình” cũng là cán bộ. ĐBVB muốn nhắc nhở CB kháng chiến phải nhớ đến những phẩm chất tốt đẹp của chính mình trước đây, đừng tự đánh mất chính mình trong hoàn cảnh mới.
+ Kết thúc đoạn thơ là một câu hồi là: “Mình đi, mình có nhớ mình”, gợi nhiều cách hiểu.
Cách hiểu thứ nhất: từ “mình” thứ nhất và thứ hai chỉ người cán bộ về xuôi, từ “mình” thứ ba chỉ “ta” là người dân Việt Bắc, người ở lại. Khi ấy, câu hỏi sẽ trở nên xao xuyến, day dứt một niềm trăn trở: Mình tê, mình có nhớ ta - mình đi, mình có nhớ đến ta không, đây cũng chính là nỗi niềm da diết xuyên suốt bài thơ khi người cán bộ về xuôi. Cách hiểu này cho thấy sự hòa nhập gắn kết thật đằm thắm giữa “ta” và “mình”, Tuy hai nhưng lại là một không thể chia xa, không thể tách rời vì quãng thời gian gắn bó mười lăm năm đã gắn kết ta và mình lại với nhau.
Cách hiểu thứ hai: cả ba từ “mình” đều chỉ người ra đi. Khi ấy, câu hỏi sẽ là một lời nhắc nhở tha thiết, sâu sắc mà nghiêm nghị: Mình đi, mình có nhớ và có giữ được mãi con người của mình những ngày tháng sống ta làm việc ở đây không? Câu hỏi vì thế mà trở thành lời nhắc nhở sâu sắc: Về xuôi rồi đừng đánh mất chính con người mình, đừng bao giờ quên những năm tháng kháng chiến gian khổ, hào hùng khi trở về tới cuộc sống hòa bình!
Hình ảnh cây đa Tân Trào gợi nhắc sự kiện lịch sử ngày 22.12.1944 đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội chiến lược đi đến sự thắng lợi của Cách mạng. Cả bốn câu thơ đều có chung một ý nghĩa: khẳng định Việt Bắc là cái nôi của Cách mạng là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến đã làm nên “thiên sử vàng” cho dân tộc. 
---* lý luận văn học Chủ đề chính trị trong thơ của thi nhân hòa điệu cùng chất giọng tâm tình với âm hưởng ngọt ngào dân ca đã làm nên những lời thơ bất tử. Lời của người ở lại cũng là lời nhắn gửi với người đọc hôm nay về những ngày tháng thiêng liêng của lịch sử và tấm lòng cao đẹp của những thế hệ đi trước mà thế hệ tiếp nối lịch sử hôm nay không thể nào được lãng quên.
Và, nói về tính chất trữ tình chính trị trong thơ Tố Hữu là nói đến một đặc trưng lớn về phong cách thơ ông, như nhận định của giáo sư Trần Đình Sử: “Thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu dựa trên tiền đề thống nhất hoàn toàn, lắm khi là đồng nhất chủ thể trữ tình cá nhân và chủ thể của hoạt động chính trị là giai cấp, Đảng, Nhân dân, Tổ quốc. Sự thống nhất cao độ ấy tự nó đã thủ tiêu lí do phân biệt tuyên truyền và trữ tình, làm gần lại phút bùng cháy của tâm hồn trữ tình với thời điểm bùng nổ của sự kiện chính trị. Tố Hữu đã kết hợp một tình cảm yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội thuần túy nhất với một tình cảm cá nhân đằm thắm trong sáng nhất. Nhờ thế, ông đã sáng tạo được một thế giới nghệ thuật thơ độc đáo của thơ trữ tình chính trị và nâng nó lên một trình độ mới. Với rất nhiều tác phẩm khác, ta thấy sự hòa hợp kì diệu này giữa chính trị và trữ tình:
 “Cửa ngục đổ. Cả Pari rầm rộ
Kéo nhau về tràn ngập điện Hoàng gia
Muôn cánh tay xây dựng Cộng hòa
Xô xuống đất chiếc ngai vàng mục nát”.
(14 tháng 7)
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (sau này là Quân Đội Nhân Dân Việt Nam); Mái đình Hồng Thái gợi nhắc những cuộc họp quan trọng mang tầm vóc quan trọng 
+ Câu thơ cuối cùng có sự đổi chỗ thú vị: mái đình hồng thái, cây đa tân trào được hoán vị thành “tân trào, hồng thái mái đình, cây đa” tạo nên tính chất mới mẻ, độc đáo cho câu thơ lục bát. Các địa danh Tân trào, hồng thái có giá trị lịch sử to lớn. trong câu thơ này, chúng đồng nghĩa với chính mình. Cho nên, người cán bộ về xuôi chỉ xa cách về không gian địa lý nhưng ko có sự xa cách trong tâm hồn. Những “tân trào, hồng thái, mái đình, cây đa” từ nay đã trở thành 1 phân máu thịt, trái tim tác giả.
àSáu cặp lục bát nói trên được tác giả sử dụng cách ngãt nhịp đều đặn, vận dụng nghệ thuật tiểu đối tài tình làm cho đoạn thơ có nhạc tính réo rắt ngân vang, để thâm vào tâm hồn người đọc. Lời thơ Tế Hữu vì thế vừa phảng phất màu sắc cỗ điền như những câu Kiểu, vừa bình dị gần gũi thân quen như những câu ca đao, dân ca rất hấp dẫn. 
 Hoàng Phi 
-Chỉ với mười hai câu thơ trong khô 3 của bài VB, Tổ Hữu đã đưa ta vào thê giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tó Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập mình đi - mình về. Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì mình đi-mình về đều chỉ một hướng là về xuôi, về Hà Nội. Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2-4/4 đều đận, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp vỗi phong cách thơ trữ tình - chính trị của Tổ Hữu.
-“Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc” của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài Việt Bắc. Những chỉ tiết về ánh sáng và tình người, từ miệng cơm châm muối, trám bùi, măng mai, mái nhà hắt hiu lau xám đến môi thù hai vai chung gánh, những tâm lòng son sẽ không bao giờ phai nhạt, sẽ sông mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân Việt Bắc, của những cán bộ về xuôi.
(22 câu tiếp): Nhớ về thiên nhiên Việt Bắc, nhớ những kỉ niệm gian khó, nghĩa tình, son sắt 
Phân tích khổ thơ và n

Tài liệu đính kèm:

  • docxphan_tich_tac_pham_viet_bac.docx