Một số câu hỏi luyện thi Tốt nghiệp THPT bài "Rừng xà nu"

Một số câu hỏi luyện thi Tốt nghiệp THPT bài "Rừng xà nu"

Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc.Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn.

Trong rừng ít có cây sinh sôi nẩy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loáng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, nhưng vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng

Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.

 

doc 7 trang hoaivy21 14121
Bạn đang xem tài liệu "Một số câu hỏi luyện thi Tốt nghiệp THPT bài "Rừng xà nu"", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bản quyền>>
Luyện tập
Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi sau:
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc.Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có cây sinh sôi nẩy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loáng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, nhưng vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng 
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
Câu 1. Nêu các phương thức biểu đạt trong đoạn văn trên?
è các phương thức biểu đạt trong đoạn văn trên là: tự sự kết hợp với miêu tả
Câu 2. Nhà văn đã cảm nhận hình tượng cây xà nu bằng những giác quan nào? Tìm những câu văn cho thấy điều đó.
è Nhà văn đã cảm nhận hình tượng cây xà nu bằng những giác quan:
+ thị giác:
“ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”
Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời.
Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loáng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết.
+ khứu giác: 
Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng.
ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt
+ thính giác: Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão.
 ..
Câu 3. Hãy chỉ ra và nêu tác dụng của các biện pháp tu từ được sử dụng trong những câu văn sau:
 “...Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã ”
Để khắc họa hình tượng cây xà nu, tác giả chủ yếu vận dụng nghệ thuật nhân hóa: “hàng vạn cây không có cây nào không bị thương, bị chặt đứt ngang nửa thân mình, nhựa ứa ra ( ) rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn, ham ánh sáng mặt trời, phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng “
èNghệ thuật nhân hóa khiến hình tượng cây xà nu hiện lên như một sinh thể sống động, có đời sống như con người với sức sống mãnh liệt.
- Nhân hoá: những vết thương của chúng chóng lành ; Chúng vượt lên rất nhanh; rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...
èBiện pháp nhân hoá khiến xà nu không chỉ hiện lên ở phương diện sinh vật học với đặc tính dẻo dai, sức chịu đựng tốt mà còn trở thành sinh thể sống, đang chịu những đau đớn về thể xác nhưng bất khuất, kiên cường, gan dạ, bản lĩnh, ẩn tàng một sức sống bất diệt, một tâm hồn giàu chất thơ.
- So sánh : Trong rừng ít loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy ; Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như những vết thương trên một thân thể cường tráng. 
èBiện pháp so sánh nhằm ca ngợi sức cống hiếm có của cây xà nu.
- Đối lập: Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên; Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê 
èBiện pháp đối lập giữa cây xà nu ngà gục với mọc lên, giữa cái chết với sự sống nhằm khẳng định sự sống sinh ra từ trong cái chết, mạnh hơn cái chết của cây xà nu cũng chính là tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương mà anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Câu 4. Từ cảm nhận về sức sống mãnh liệt của cây xà nu, nêu bài học liên hệ cho tuổi trẻ hiện nay?
Đất nước Việt Nam nổi tiếng với “Rừng vàng, biển bạc, đồng xanh” nhưng hiện nay, rừng đang bị khai thác, có nguy cơ bị tàn phá một cách nghiêm trọng. Rừng không chỉ là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa của dân tộc, nó còn là lá phổi xanh của cả đất nước, nhưng lá phổi xanh đó lại dần bị mất đi, đang dần bị con người chúng ta tần phá một cách nghiêm trọng nhất, đang đứng trước nguy cơ bị tiệt chủng và xóa sổ rừng. Con người ta bất chấp bản thân làm nhiều thứ vì tiền, trong đó có vấn nạn khai thác rừng trái phép. Phá rừng làm lớp đất dễ bị rửa trôi, xói mòn, trở nên bạc màu giảm độ bảo vệ đất vì rừng giúp giữ đất. Ảnh hưởng đến khí hậu, cây hút nước trong lòng đất và giải phóng vào không khí. Khi rừng bị phá bỏ khiến tình trạng lũ lụt, hạn hán tăng.Phá rừng là một nhân tố tác động mạnh mẽ đến sự nóng lên của trái đất, làm gia tăng hiệu ứng nhà kính. Mỗi chúng ta đang dần bị ảnh hưởng bởi những hành động chưa đúng của con người, cuộc sống đang ngày bị đe dọa, khi nhiệt độ trái đất ngày càng tăng, con người đổ xô chặt phá rừng để xây dựng những khu công nghiệp, hay là để thu lợi từ bán gỗ, tất cả những điều đó hậu quả nghiêm trọng cũng đều là con người phải gánh phải. Nhà nước cần phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ và gìn giữ đối với tài nguyên của dân tộc, phải có nhiều chính sách để bảo vệ nguồn sống của mỗi quốc gia, đó là trách nhiệm và nghĩa vụ mà nhà nước cần phải làm để bảo vệ cuộc sống của dân chúng. Mỗi chúng ta cũng cần có ý thức và trách nhiệm bảo vệ cánh rừng nguyên sinh, bởi nó là một yếu tố quan trọng để duy trì của cuộc sống của chúng ta ngày càng tốt hơn, chất lượng cuộc sống được nâng cao, không khí sẽ bớt đi ô nhiễm bụi bẩn, con người được sống một cuộc sống trong lành và thân thiện nhất.
Câu 5. Cảm nhận của anh/chị về hình tượng cây xà nu trong đoạn văn trên?
“Giặc về giặc chiếm đau xương máu
Đau cả lòng sông đau cỏ cây”
-Quê Mẹ- Tố Hữu
Chiến tranh là một tội ác, chính bom đạn của kẻ thù ra sức tàn phá bao thành quả lao động của con người, sức sống của thiên nhiên, hủy diệt cuộc sống của bao người dân lành vô tội. Đọc truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành trích trong tập “Trên Quê hương những anh hùng Điện Ngọc”, tác giả đã khắc họa hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu, rừng xà nu vẫn vươn mình trỗi dậy, sừng sững tiếp nỗi dưới ánh sáng của mặt trời như một hình tượng nghệ thuật khó quên. Có thể nói, viết về rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã trạm tới được một nét đẹp điển hình và đặc sắc của đất Tây Nguyên hoang dại đầy khí phách. Một trong những đoạn văn đặc sắc và có sức biểu cảm nhất của truyện chính là đoạn đầu tác phẩm: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc... Đứng trên đồi xa nu trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì ngoài những đồi xa nu nối tiếp tới chân trời”.
“Cánh cửa của nền văn chương đương đại Việt Nam đã mở ra bắt đầu từ Nguyên Ngọc”, lời nhận xét ấy của Đỗ Kim Hồi đã khẳng định vị trí quan trọng của Nguyễn Trung Thành trong nền văn học nước nhà. Nguyễn Trung Thành là nhà văn của Tây Nguyên, ông viết rất hay, sâu sắc và chân thực về con người và mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ. Ông “là nhà văn suốt đời đi tìm cái hùng”, quan điểm nghệ thuật ấy in đậm dấu ấn trong truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm được xem là đứa con tinh thần tiêu biểu của Nguyễn Trung Thành khi viết về Tây Nguyên với cảm hứng đậm chất sử thi. Đặc biệt tác giả đã xây dựng thành công hình tượng cây xà nu mang đậm bản chất, chí khí cho con người sống trên mảnh đất này. Tác phẩm “Rừng Xà Nu” ra đời năm 1965 khi đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Tác phẩm được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Lấy bối cảnh của thiên truyện là mảnh đất Tây Nguyên với những con người anh hùng, kiên trung, bất khuất Nguyễn Trung Thành đã dựng lên cả một tòa thành trì ngôn ngữ vững chắc và điêu luyện hấp dẫn đến từng chi tiết để hình ảnh cây xà nu trở thành một biểu tượng thiên liêng bất diệt.
Xuyên suốt truyện ngắn “Rừng xà nu” là hình ảnh cây xà nu, có thể xem đây là hình tượng trung tâm, làm nền móng vững chắc và cũng là nguồn cảm hứng bất tận nhà văn chắp bút và viết nên thiên sử này. Xà nu vốn là loài cây phổ biến ở núi rừng Tây Nguyên, dẻo dai, kiên cường và bất khuất. Nhắc đến rừng xà nu, người ta sẽ liên tưởng đến những con người Tây Nguyên bất khuất, kiên cường, không chịu đầu hàng, luôn hướng về phía trước và vươn lên tỏa sáng dưới ánh sáng mặt trời.
Đến với mảnh đất Tây Nguyên của Nguyễn Trung Thành ta bắt gặp hình ảnh Rừng xà nu
từ những dòng văn đầu tiên. Ấn tượng đầu tiên của nhà văn về hình ảnh này là một không gian nghệ thuật rộng mở, bạt ngàn vô tận, ngay lập tức ùa về trong tâm trí ông, nảy sinh những ý tưởng khi viết về thiên anh hùng ca về Tây Nguyên. Có thể nói, Rừng xà nu là hình ảnh khơi nguồn cho dòng cảm xúc để nhà văn sáng tạo, là mạch thẩm mĩ để dẫn dắt nhà văn miêu tả, kể chuyện, đúng như tác giả tâm sự: “Bắt đầu từ ngòi bút, gần như không hề tính trước là một rừng xà nu, những cây xà nu Tôi hình dung câu chuyện cốt truyện , nhưng tôi đã thấy rõ cái thiên truyện ngắn này sẽ bắt đầu bằng một khu rừng xà nu và sẽ kết thúc bằng một khu rừng xà nu vô tận ” Với người đọc chúng ta, rừng xà nu đích thực là một hình tượng thẩm mĩ, đánh thức những suy nghĩ, cảm thụ thú vị khi vào dòng đầu cũng như lúc chia tay. Quả thật, nghệ thuật khi đạt đến đỉnh cao có khả năng đánh thức những ấn tượng vốn đã ngủ quên trong lòng người đọc.
Rừng xà nu trước hết là một bức tranh thiên nhiên, đặc trưng cho thiên nhiên Tây Nguyên nên nó gợi ra cái vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ. Cánh rừng xà nu được miêu tả trong đoạn văn là một cánh rừng “nằm trong tầm đại bác của giặc, ngày nào cũng bị bắn hai lần”. Nguyễn Trung Thành quan niệm: “Câu đầu trong đoản thiên làm một thứ âm chuẩn nó giúp cho toàn bộ tác phẩm”. Ở đây nhà văn cũng đã làm nên một thứ âm chuẩn ấy, hứa hẹn vẻ một khúc bi tráng trong chiến tranh. Nhà văn đã xây dựng lên sức sống, tư thế đối mặt với cái chết, sự sinh tồn đang đứng trước mối đe dọa bị hủy diệt.
Đặt đoạn văn trong toàn tác phẩm, ta nhận thấy Rừng xà nu có kết cấu hay nói đúng hơn là một lối vào đề rất mới lạ. “Làng ở tần đại bác của đồn giặc”, chúng nó bắt đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẫm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Nếu như giới thiệu theo lối cổ điển, Nguyễn Trung Thành sẽ giới thiệu tên làng, nguồn gốc rồi mới nói đến vấn đề ông muốn nói. Nhưng không, vào đề ông nói ngay đến vị trí nguy hiểm trong “Tầm đại bác của địch” của làng Xô Man, mà không hề nhăc đến địa danh của làng. Trong cách kể của nhà văn, dường như chúng ta đều biết cái làng đó rồi, như người đi xa lâu ngày không gặp chỉ náo nức muốn biết tình trạng sức khỏe của người thân giờ này ra sao. Và làng Xô Man trong tiềm thức mỗi chúng ta, dù có thể chưa một lần đặt chân đến vẫn thấy có chút gì đó thân quen gần gũi. Trong chiến tranh, đâu chỉ có làng Xô - man mới nằm trong tầm đại bác của đồn giặc. Tất cả làng, trên khắp đất nước Việt Nam này đều chịu chung nỗi đau thương đó. Ta cũng thấy lòng có chút gì đó đồng điệu.
Nhưng đây không phải là làng quê của ta, nếu như Hoàng Cầm nhớ tha thiết mảnh đất Kinh Bắc với hương lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ gà lợn tươi trong; nếu như Nguyễn Đình Thi mơ màng về Hà Nội nhớ Hà Nội với “Gió thổi mùa thu hương cốm mới”; thì làng Xô-man dưới ánh mắt của Nguyễn Trung Thành lại hiện lên kiêu hãnh và gan góc với “những ngọn đồi xà nu cạnh những con nước lớn”. Ta nhận thấy đây chính là làng Xô-man chứ không phải là một ngôi làng bất kì nào trên mọi miền đất nước. Có lẽ vì tính chất riêng mới lạ và đặc sắc, có tính đại diện phổ quát cao cho các dân tộc Tây Nguyên mà rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành miêu tả thật sinh động và gai góc, như một sinh thể có hồn.
Từ âm hình chủ đạo của rừng xà nu qua câu thơ mở đầu, ta tưởng như cái cảm hứng bi tráng ấy được nén, tích tụ trong câu văn cầm trịch, sẽ được thi triển trong những câu còn lại của thiên truyện ngắn mà trước hết là những câu văn ngào ngạt, nồng nàn, rực rỡ như tấm ngực rừng xà nu vĩ đại chói chang dưới cái nắng gắt rực rỡ. Hình tượng cây xà nu qua ngòi bút của Nguyễn Trung Thành đã trở thành một thành lũy vững vàng, bảo vệ cuộc sống cho buôn làng. Mảnh đất đã chịu nhiều đau thương, chết chóc. Mỗi ngày giặc bắn đại bác ba lần vào làng, nhưng làng Xô-man vẫn bình yên và “Hầu hết đạn đại bác ba lần vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Đổi lại, vì bảo vệ cho dân làng nên cánh rừng xà nu lại chịu nhiều đau thương mất mát. Nó là đối tượng bị tàn phá và hủy diệt. Nó đau đớn bởi: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” nhưng nó hào hùng ngay cả trong đau đớn. 
“Có những cây bị đạn đại bác chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”. Ở chỗ khác nhà văn miêu tả kỹ hơn, “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực ngưỡi đã bị đạn đại bác chặt làm đôi, ở những cây này nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, chỉ năm mười hôm là cây chết”. Bằng nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ tượng trưng, bút pháp sử thi, lãng mạn tác giả đã nói lên được nỗi đau thương, mất mát của dân làng Xô-man và tố cáo tội ác của lẻ thù. Viết về nỗi đau của cây mà cứ ngỡ nỗi đau của con người, một nỗi cây ngã xuống ta cứ ngỡ như một người Xô-man ngã xuống. Phải chăng đó là hình ảnh của anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai, anh Quyết những người đã ngã xuống vì chính nghĩa dưới bàn tay tàn bạo của kẻ thù. Nhưng trong đau thương, cây xà nu vẫn hiện lên với những vẻ đẹp thăng hoa đến sững sờ. Đẹp trong dáng vẻ kiêu hùng, bất khuất để rồi “đổ ào ào như một trận bão”. Đến khi chết đi vẫn mang một sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt mang cái tinh thần bi tráng. Phải chăng đó cũng là ẩn dụ cho hình ảnh của biết bao con người Việt Nam đã ngã xuống trong những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ dại. Là dáng ngã của anh lính trên đường băng Tân Sơn Nhất để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Là dáng ngã của người lính thời kháng Pháp:
“Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Ôi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tấn công” 
-Chính Hữu-
Văn học là phương thức phản ánh và chiếm lĩnh thực tại xã hội, văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Ở đây Nguyễn Trung Thành đã tái hiện hình tượng rừng xà nu trong đau thương vẫn đẹp bởi những đường nét, màu sắc, hình khối, trong đau thương mà vẫn hiện hữu hương thơm và ánh sáng. Phải nhận rằng trong nền văn xuôi của chúng ta, khó có thể tìm đâu được những câu văn tả cảnh xuất thần đến thế. Tưởng như nhà văn đã di chuyển tất cả các giác quan, đón nhận cảm giác mới để bắt trọng từng khoảnh khắc của thiên nhiên trạm trổ nên bức phù điêu tuyệt mĩ. Nhà văn đã rất dày công kĩ càng để cảnh vật được nổi bật hẳn lên dưới ngòi bút biết tạo hình khối và đường nét, biết tạo ra cái “hương thơm ngào ngạt, long lanh của nắng hè gay gắt, rồi dần dần đen bầm lại, quyện thành từng cục máu lớn”. Chỉ với một câu văn mà nhà văn đã tái hiện lên trước mắt cảnh cả một khu rừng xà nu sau mỗi lần “chúng nó bắn”. Nhưng vẻ đẹp và sự gợi cảm của mỗi câu văn không chỉ nói lên một hiện tượng tàn khốc mang tính tàn phá và hủy diệt như thế. “Một tác phẩm sẽ chết nếu nó miêu tả chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là sự thôi thúc mạnh mẽ, sẽ mang tính chủ quan của thời đại” (M.Gorki), “Nếu nó không phải và niềm vui nỗi đau khổ, là nụ cười của cây xà nu không chỉ là sự phản ánh tội ác của giặc, không chỉ là sự mất mát hoàn toàn. Nguyễn Trung Thành đã miêu tả những cây xà nu không chỉ là những loại cây thông thường mà dưới góc độ khác, góc độ của người Tây Nguyên gan góc đó là sự khát quát cao độ của hình tượng cây xà nu đông đảo, toàn diện. Loài cấy ấy cũng như con người: “Bị thương và chết đi “Nhựa của nó chảy ra, dần dần đen lại, đen và quyện thành từng cục máu lớn”. Đây không phải là phép so sánh giản đơn mà dường như trong tiềm thức của người nghệ sĩ, cây xà nu gần gũi thân yêu thực sự chứ không phải là vật vô tri, vô giác, ông tin đó là một sinh thể, là một con người. Lẽ dĩ nhiên trong văn chương có những điều bất khả lý giải, chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác, đôi khi rất khó tin, thậm chí không có “Sự trùng khít giữa cái miêu tả và cái được miêu tả” nhưng cái tài của Nguyễn Trung Thành chính là ông đã tạo được ảo tưởng giống hệt như thiệt” cúa sự vật được phản ánh. Ông đã truyền rung cảm từ con tim chủ quan sang mỗi chúng ta là người tiếp nhận, khiến chúng ta không chỉ yêu mà còn tin vào sức sống cũng như vẻ đẹp rất người tiềm ẩn trong mỗi cây xà nu tưởng như hết sức thân thuộc bình dị. 
Betong Brecht cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống” mà là hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”. Nguyễn Trung Thành đã dựng lên hình ảnh của cây xà nu có sức sống bất diệt, mãnh liệt tượng trưng cho sức sống và phẩm chất người dân làng Xô-man nói riêng và Tây Nguyên nói chung. Bằng bút pháp miêu tả tác giả đã mang đến cho người đọc, sức sống hoang dại, mãnh liệt của “Rừng xà nu”. “Trong rừng có ít loại cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy”, sức sống mãnh liệt của cây xà nu chính là vậy, nằm trong sự nối tiếp “cạnh một cây xà nu mới gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Đau thương nối đau thương sự sống nối tiếp mưa bom, bão đạn nào của kẻ thù có thể hủy diệt được. Sức sống ấy giống như sức sống ngàn năm vững chãi của dân tộc ta, nơi mà:
“Lớp cha lớp trước lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành”
Sức sống của cây xà nu vươn lên mạnh mẽ hay chính là sức sống, mãnh lực tiềm tàng của những con người nơi đây. Người dân nơi đây cũng “dũng mãnh như cây xà nu đất ta”, với “hình nhọn mũi tên đâm thẳng lên bầu trời”. Sức mạnh của ngòi bút Nguyễn Trung Thành chính là ở chỗ ông nắm bắt nhuần nhuyễn đặc biệt là những điểm nhìn tài hoa và đầy tinh tế. Sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người Tây Nguyên khiến ta thấy thấp thoáng ẩn hiện sau mỗi cây rừng xà nu là sự gai góc, sức sống mạnh mẽ và nụ cười cởi mở của dân làng Xô-man. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau đứng lên, tiếp tục chiến đấu. Con người Xô man cũng vậy: anh Xút bà Nhan hi sinh thì có thế hệ của Mai và Tnú lớn lên tiếp tục xông pha vào mưa bom bão đạn để viết tiếp trang sử của làng. Mai ngã xuống khi tuổi xuân và hạnh phúc đang căng nồng thì Dít lớn lên nhanh chóng trở thành bí thư chi bộ. Rồi thế hệ bé Heng đang tiếp bước cha anh. Tất cả tạo nên một đội ngũ trùng điệp. đúng như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp”
Hay những vần thơ của Hoàng Trung Thông:
“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.”
Vâng! Người người lớp lớp ấy đã tạo nên sự tiếp nối giữa muôn thế hệ: “Một cây ngã cả rừng mọc lại - Người mỗi người đã mấy vạn mùa xuân”. Bức tranh rừng xà nu chính là sự nối tiếp mãi mãi xanh tươi theo thời gian giữa bao bom đạn của kẻ thù. Văn học chính là đi tìm tư tưởng trong ánh sáng, chiếu rọi chúng xuống khắp những hàng cùng ngõ hẻm. Mỗi nhà văn gom nhặt từng giọt tư tưởng chắt chiu, hình thành hun đúc thành những câu văn đầy sức gợi. Vẻ đẹp nữa của rừng xà nu là loài cây ham ánh sáng mặt trời, yêu tự do. Sự sống của nó là sự vươn lên để sinh tồn. Dựa vào đặc điểm đó, Nguyễn Trung Thành lại thêm lần nữa khiến người đọc phải rung động trước những câu văn đầy ánh sáng và hương thơm. Cây xà nu rất ham sáng và khí trời: “nó phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh nắng, thứ ánh nắng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn, thẳng tắp. Vô số hạt bụi vàng bay ra từ nhựa cây thơm mỡ vàng”. Như mang biểu tượng cho khát vọng tự do những con người Xô-man yêu tự do. “Những con người sẵn sàng cầm giáo, cầm gươm quyết tâm bảo vệ vùng trời tự do ấy”. Cả cánh rừng xà nu như được gia tăng sức sống, phô ra tất cả những vẻ đẹp của tầm vóc,của sắc màu và hương thơm Thật là một loài cây kì diệu!
Đọc “Rừng xà nu” tưởng như tác giả không hề dè sẻn chất vàng son của ngôn từ để quyết
làm cho bức tranh thiên nhiên phải trở nên đẹp đẽ tựa như tấm thảm nhung khổng lồ dựng lên giữa trời. Và khi khép trang sách lại, trong trí nhớ mỗi chúng ta hẳn vẫn chưa thể hết lung linh vóc dáng xà nu đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm nồng, chúng cứ ngời ngợi xanh tươi dưới ánh sáng hè nóng gắt, trong suốt và quý giá tựa vàng. Phải chăng cũng cây xà nu già cỗi một đời, những cây xà nu xanh non mởn mởn sức sống đang căng mình đón ánh mặt trời là hình ảnh đẹp đẽ nhất khơi gợi lí tưởng, khát vọng, niềm tin và thái độ về tương lai, một tinh thần cách mạng vững bền.
Và ở “Rừng xà nu” còn xuất hiện những cây khác vững chãi, không chịu khuất phục trước giông bão, đạn bão của kè thù. “Có những cây xà nu lá cành xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ, đạn bác không giết nổi chúng. Những vết thương của chúng chóng làng như trên một cơ thể cường tráng. Cứ thế 3 năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho dân làng”. Hình ảnh ấy khiến ta liên tưởng đến hình của cụ Mết, của Tnus. Cánh rừng xà nu ấy làm ta nhớ về những cánh rừng Việt Bắc những cánh rừng đã trở thành áo giáp chống lại quân thù mà Tố Hữu đã từng say sưa ca ngợi:
“Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”.
Và cứ thế “hai ba năm nay rừng xà nu ướn tấm ngực lớn, che chở cho làng”. Đọc từ đầu tác phẩm cho đến những dòng văn này, chúng ta cảm nhận thấy rất rõ ràng rừng xà nu không chỉ là một loài cây vô tri vô giác mà đã trở thành một sinh thể sống động, gợi nhiều liên tưởng và suy ngẫm lắng sâu. Thật là quật cường như cũng thật diệu kì. Có lẽ bản thân những câu văn trên cũng nói lên sức sống cùng bản chất ham sống mãnh liệt tuyệt vời của cây xà nu. Nhà văn không miêu tả phiến diện đến nỗi khó tin là tất cả các loại cây dưới tầm đại bác của giặc đều còn sống và trỗi lên với một sức mạnh kì diệu. Tấm ngực lớn của nó không chỉ thể hiện sức mạnh cộng đồng như cả dân làng Xô-man mà còn thể hiện chút chân thực đến say lòng người cùng niềm tin mãnh liệt về ánh sáng cách mạng.
Cái hay và đặc sắc của đoạn văn chính là ở chỗ nhà văn đã nhìn rừng xà nu như một sinh thể có hồn hoà nhập vào đời sống nhiệt tình của con người Tây Nguyên nói chung, của dân làng Xô Man nói riêng. Khép lại đoạn văn và cũng là toàn tác phẩm là một câu văn đầy sức gợi: “Đứng trên đồi xa nu trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời” không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Nguyễn Trung Thành sử dụng câu văn này hai lần, ở đoạn này và đoạn cuối tác phẩm. Rừng xà nu dường như đã lớn lên đến sức sống căng tràn nhất, trải dài khắp nẻo đường. Ta như cảm giác cánh tay rừng xà nu đang vươn dài ôm lấy làng Xô Man vào lồng ngực lớn của mình, yêu thương, che chở và bảo vệ. Sức mạnh của khu rừng, của làng Xô Man và của cả một chút gì bí ẩn, hoang sơ gợi sự khát khao, kiếm tìm với người biết yêu thương và sự đe doạ dữ dội đối với kẻ thù xâm lược, kiếm tìm với người biết yêu thương và lời đe doạ dữ dội đối với kẻ thù xâm lược: “Chừng nào chúng ta còn tồn tại thì các người đừng hòng xâm nhập vào đây phá tan cuộc sống yên bình nơi đây”.
Thật là đẹp và cũng thật kì vĩ! Ta cảm giác như choáng ngợp, mỗi lời văn ngập tràn không khí sử thi hoang dã, dũng mãnh, gan góc và đầy bí mật như trong những lời kể về khu rừng già đại ngàn và đời sống của chàng Đam San thưở xưa rực rỡ. Chính sức sống hoang dã, mãnh liệt này là một nét đặc sắc và vô cùng độc đáo của vùng đất Tây Nguyên mà con người dù có viết nhiều về nó mãi mãi không thể nào khám phá hết chiều sâu tận cùng.
Đoạn mở đầu đầy chất thơ không phải là khúc khai tấu đầy ngẫu hứng, được nhà văn dạo
lên để mở đầu cho bản hùng ca về Tây Nguyên và những con người nơi đây. Cánh rừng xà nu bạt ngàn trải dài ấy chính là trái tim là thân thể máu thịt của dân làng Xô-man, nó tích chứa cả một sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất của con người nơi đây. Hình tượng cây xà nu được nhà văn tập trung dồn bút lực để miêu tả như một bức tranh sơn mài sống động, đầy hấp dẫn.
Hình tượng rừng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Nó
được dùng như một ẩn dụ để người đọc gợi về con người Tây Nguyên yêu tự do, dồi dào sức sống mãnh liệt. Thành công lớn ở đoạn văn chính là hình tượng cây xà nu đã diễn tả sâu sắc và tinh tế đúng như nhà nghiên cứu phê bình văn học Lê Nhật: “Độ nén của truyện không thể lướt qua, cưỡi ngựa xem hoa mà cần chậm rãi nghiền ngẫm từng chi tiết, hình ảnh, câu văn”.
Lời văn ấy như mang môt sức hút lạ kì, một mãnh lực phi thường khiến bất cứ ai cũng không thể rời mắt. Hình tượng rừng xà nu trở thành “thiên sử thi ngắn thời đánh mĩ”. Dưới ánh sáng của cách mạng, hình tượng cây xà nu đã vượt qua tầm vóc ngôi làng mà nó sinh ra, vươn lên và trở thành biểu tượng đẹp đẽ, hùng vĩ cho con người Tây Nguyên nói riêng và dân tộc nói chung. Làn gió văn chương của Nguyễn Trung Thành thổi tới đâu, có lẽ nó đã thổi sâu vào trong tâm khảm bất cứ người dân Việt Nam nào rung lên trong tâm hồn người những hình ảnh không thể nào phai nhòa để hình tượng cây xà nu trở thành một hình tượng bất hủ trong lòng mỗi người Việt Nam.

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_cau_hoi_luyen_thi_tot_nghiep_thpt_bai_rung_xa_nu.doc