Bài giảng Ngữ Văn Lớp 12 - Tiết 19+21: Bài thơ Việt bắc (trích) - Phạm Thị Lụa

Bài giảng Ngữ Văn Lớp 12 - Tiết 19+21: Bài thơ Việt bắc (trích) - Phạm Thị Lụa

- Bốn câu thơ là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi: tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn đầy lưu luyến, bịn rịn của người kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc.

+ Các từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn”:

gợi tả chính xác không khí và tâm trạng lúc chia tay.

 + Hình ảnh “áo chàm”:

Hoán dụ chỉ đồng bào Việt Bắc – những con người giản dị mà nghĩa tình chân thành.

 

ppt 80 trang Hoài Vân Nam 04/07/2023 3670
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ Văn Lớp 12 - Tiết 19+21: Bài thơ Việt bắc (trích) - Phạm Thị Lụa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiết 19-21: Văn 
VIỆT BẮC 
(TRÍCH – TỐ HỮU) 
Giáo viên: Phạm Thị Lụa 
I. Tìm hiểu chung: 
 1. Hoàn cảnh sáng tác: 
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết. Hòa bình lập lại ở miền Bắc. 
 - Tháng 10 - 1954, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội để tiếp tục lãnh đạo cách mạng. 
- Nhân sự kiện thời sự trọng đại này, Tố Hữu viết bài thơ "Việt Bắc" để thể hiện tình nghĩa sâu nặng của những người cán bộ, chiến sĩ về xuôi với quê hương cách mạng. 
2. Kết cấu chung của bài thơ: 
- Toàn bộ bài thơ gồm 150 câu thơ lục bát và được chia làm hai phần: 
 + 90 câu đầu : 
 Tình cảm thủy chung son sắt của những người cán bộ về xuôi với quê hương cách mạng thông qua nỗi nhớ da diết. 
 + 60 câu sau: 
 Sự gắn bó giữa miền ngược với miền xuôi và ước mơ về một Việt Bắc sẽ được xây dựng trong tương lai. 
Hát giao duyên 
"Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ" 
- Bài thơ được viết theo kiểu đối đáp nam - nữ, phỏng theo lối hát giao duyên của dân ca. 
3. Vị trí đoạn trích: 
Thuộc 90 câu đầu của bài thơ. 
II. Đọc - hiểu văn bản : 
1. Nỗi niềm của kẻ ở và người đi (Đoạn 1, 2,4) 
 “ Mình về, . 
 nhớ nguồn” 
- Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi của người ở lại, khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội nghĩa tình, thể hiện tâm trạng nhớ thương, tình cảm gắn bó, thủy chung của quê hương Việt Bắc, con người Việt Bắc dành cho người về xuôi . Cách xưng hô “mình – ta , ” lối đối đáp giao duyên : thân mật gần gũi như trong ca dao. Điệp từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng. Điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” : lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình. 
a. Nỗi niềm của người ở lại: 
- “ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng ” : 
 15 năm -M ột chặng đường dài với biết bao kỉ niệm ân tình, cùng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt 
- Câu hỏi tu từ, n hững hình ảnh liệt kê, tiểu đối “cây – núi, sông – nguồn”: tiêu biểu cho núi rừng Việt Bắc . TH vận dụng linh hoạt và tài tìn h câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài , cái nôi của cách mạng, nuôi dưỡng người cán bộ ) . 
Tóm lại : Đoạn thơ với nhiều câu hỏi liên tiếp: 
 “Mình đi, có nhớ , Mình về, có nhớ , Mình về, còn nhớ , Mình đi, m ì nh có nhớ ” 
 L à cảm xúc dâng trào, diễn tả nỗi niềm day dứt khôn nguôi của người ở lại. 
=> Tình cảm chân thành, sâu sắc của đồng bào Việt Bắc. ) 
b. Tình cảm của người ra đi: 
-Bốn câu thơ là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi: tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn đầy lưu luyến, bịn rịn của người kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc. 
+ Các từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn”: 
gợi tả chính xác không khí và tâm trạng lúc chia tay. 
 + Hình ảnh “áo chàm”: 
H oán dụ chỉ đồng bào Việt Bắc – những con người giản dị mà nghĩa tình chân thành. 
+ “ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay ” : 
 D ấu chấm lửng cuối câu, nhịp thơ ngắt quãng, ngập ngừng . “ B iết nói gì”: là không phải không có gì để nói, mà vì quá xúc động nên nghẹn ngào không nói được thành lời. N ỗi niềm đầy xúc động, bâng khuâng. 
Cử chỉ “cầm tay nhau” thay lời nói chứa đầy cảm xúc. Không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi, bịn rịn không muốn chia xa. 
*Đoạn 4- Dùng cặp đại từ “mình – ta” và những hình ảnh so sánh quen thuộc: 
“Ta với mình , mình với ta 
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh 
Mình đi mình laị nhớ mình 
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” 
 K hẳng định tấm long của người về xuôi luôn nặng nghĩa nặng tình, biết ơn đồng bào VB 
2. Đoạn 3: Nhớ về những ngày tháng gian khổ và Vẻ đẹp phẩm chất của đồng bào Việt Bắc) 
“Mình đi, có nhớ những ngày 
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù 
Mình về có nhớ chiến khu 
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai 
Mình về, rừng núi nhớ ai 
Trám bùi để rụng, măng mai để già 
Mình đi, có nhớ những nhà 
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son 
Mình về, có nhớ núi non 
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh 
Mình đi, mình có nhớ mình 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa 
*Khái quát : Lời của Việt Bắc chỉ có 12 câu lục bát nhưng tất cả đều xoáy vào kỉ niệm không thể nào quên của những ngày CM còn trứng nước: 
-Kỉ niệm của một thời vận động đấu tranh cách mạng gian nan và khổ cực . Những từ ngữ, những hình ảnh chỉ cần nhắc cũng gợi ra nỗi nhớ cảm động: 
“Mình đi, có nhớ những ngày 
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù 
-> Hình ảnh “mưa nguồn – suối lũ – mây mù” vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng cho những khó khăn, thử thách, khốn khó, cơ cực mà đồng bào và cán bộ đã phải chịu đựng và vượt qua 
- Kỉ niệm về đồng bào VB : những con người nghèo khổ, cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng giàu lòng yêu nước, căm thù giặc 
 Câu thơ “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” tạo ra một tiểu đối vừa gợi sự gian khổ, vừa như cụ thể hóa mối thù của cách mạng: phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Mối thù dân tộc như đè nặng lên vai của mọi người. 
-Kỉ niệm về đồng bào VB: cuộc sống nghèo khổ nhưng thắm thiết nghĩa tình sâu nặng với cách mạng: 
“Mình đi có nhớ những nhà 
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” 
Tiểu đối, điệp ngữ Cũng chính trong hoàn cảnh đó, Việt Bắc và con người VB càng “ đậm đà lòng son”, cưu mang cách mạng và những người con cách mạng. Bốn chữ “đậm đà lòng son” cứ ấm nóng, tỏa sáng không chỉ trong bài thơ mà cả ở trong lòng người. 
-Kỉ niệm về cảnh sinh hoạt đơn sơ, giản dị không thể nào quên : 
“Mình về, rừng núi nhớ ai 
Trám bùi để rụng, măng mai để già” 
Hình ảnh “Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng. Câu thơ nhắc nhở khéo léo đừng quên cội nguồn cách mạng 
- Kỉ niệm về những năm tháng vẻ vang , oanh liệt thời tiền khởi nghĩa 
“Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh” 
-Kết thúc giai đoạn lịch sử này là những ngày sôi động của Tổng khởi nghĩa CMT8 
 Mình đi, mình có nhớ mình 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ” 
-> Những địa danh, những sự kiện lịch sử, mái đìng Hồng Thái, cây đa Tân Trào được nhắc đến đã tạo nên trong lòng mọi người niệm tự hào về những ngày tháng Tám mùa thu 1945, cách mạng bùng lên giành độc lập. 
Tóm lại 
- Đoạn thơ ngắn 12 câu đã điệp 8 từ “mình” và 6 từ “nhớ, có nhớ”. Những từ “mình” điệp ở đầu mỗi câu thơ đã tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào. Những từ “nhớ, có nhớ” gợi đến âm hưởng của ca dao, dân ca, góp phần diễn tả một cách cảm động tràn đầy nỗi nhớ về cái nôi VB – quê hương cách mạng. 
3, Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc): Đoạn 5 
“Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bàn khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi vềNhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy” 
*Khái quát: Đoạn trích trên nằm ở đoạn 5 của phần I bài thơ nói về những kỷ niệm cùng nỗi nhớ với thiên nhiên con người Việt Bắc 
* Cảnh núi rừng Việt Bắc: 
- Hiện lên đa dạng, sinh động trong nhiều khoảng không gian và thời gian khác nhau; có những nét riêng biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác: 
+ “Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” 
Điệp từ “ nhớ ” đặt ở đầu câu như liệt kê ra từng nỗi nhớ cụ thể . Nỗi nhớ Việc Bắc được so sánh “ như nhớ người yêu” hình ảnh so sánh thật đầy ý nghĩa, nỗi nhớ sao thật dai dẳng triền miên, luôn thường trực trong tâm trí , N ỗi nhớ cháy bỏng, da diết, mãnh liệt. 
N hớ ánh nắng ban chiều, 
Á nh trăng buổi tối, không gian gợi cảm nên thơ 
=>Những hình ảnh miêu tả không gian thơ mộng đậm chất núi rừng Việt Bắc 
 +“Nhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về”  những bản làng ẩn hiện trong sương sớm, 
những ánh lửa hồng trong đêm khuya, 
+Nỗi nhớ sâu đậm hơn với những tên gọi địa danh gắn liền với quá khứ cách mạng mà tác giả từng trải qua:“Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy” 
 N hững tên núi, tên rừng, tên sông suối, nương rẫy quen thuộc thân yêu 
- Cảnh đẹp , có phần hoang sơ nhưng không hiu quạnh mà thơ mộng, ấm áp. 
* Con người: 
 Trong nỗi nhớ của nhà thơ, đồng bào Việt Bắc hiện lên với những phẩm chất cao đẹp: 
“Nhớ từng bản khói cùng sương 
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” 
“Người thương”, chứa đựng biết bao ân tình. Đây chính là những con người Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho cán bộ trong suốt một quãng thời gian dài gian khó. “Bếp lửa” – hình ảnh của một gia đình ấm cúng , diễn tả một nỗi nhớ bịn rịn, lưu luyến, không muốn rời xa. 
*Đoạn thơ trên chính là bản tình ca về lòng chung thủy sắt son, chính là tiếng lòng của nhà thơ, hay cũng chính là của những người VN trong kháng chiến. TH đã thể hiện thành công tình cảm của người cán bộ dành cho thiên nhiên, nhân dân Việt Bắc 
4. Vẻ đẹp phẩm chất của đồng bào Việt Bắc : Đoạn 6 
“Ta đi ta nhớ những ngày 
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi 
Thương nhau, chia củ sắn lùi 
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. 
Nhớ người mẹ nắng cháy lung 
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô. 
Nhớ sao lớp học i tờ 
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan 
Nhớ sao ngày tháng cơ quan 
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. 
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều 
Chày đêm nện cối đều đều suối xa ” 
*Khái quát : Bài thơ là những hồi tưởng của tác giả về những ngày khó khăn gian khổ nhưng chứa đầy tình người nồng ấm, là nhưng nỗi nhớ của tác giả, là những kỷ niệm với những con người, với cảnh vật nơi đây. 
- Bốn câu đầu: Nhớ những ngày cùng nhau chia sẻ khó khăn gian 
“Ta đi .. Ngọt bùi” 
+Dù bản thân có đi xa, dù có ở nơi chốn nào thì vẫn sẽ luôn nhớ về “mình”. Ngôn từ xưng hô thật giản dị mà thân thương. Hình ảnh ẩn dụ “đắng cay” chính là những khó nhọc, gian nan mà nhân dân cùng cán bộ đã phải trải qua trong suốt thời kỳ kháng chiến, còn niềm vui chiến thắng không gì khác chính là “ngọt bùi”. Từng nỗi nhớ như tràn ngập trong tâm hồn Tố Hữu biểu hiện cho một tình cảm sâu nặng tựa như nỗi tương tư đến “người thương”. Điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại càng khắc sâu hơn sự nhớ nhung nghìn trùng tha thiết của tác giả đối với Việt Bắc. Họ gắn bó với cách mạng cùng “mối thù nặng vai”, 
+”Thương nhau . Đắp cùng” 
Hình ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"... mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp. 
-Nhớ tình cảm của những người mẹ 
VB: 
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng. 
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô” 
Người mẹ nắng cháy lưng... gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Tuy họ nghèo về vật chất nhưng “đậm đà lòng son", giàu về tình nghĩa . Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi 
-Nhớ cảnh sinh hoạt cơ quan và những âm thanh quen thuộc:  “Nhớ sao lớp học i tờ 
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan 
Nhớ sao ngày tháng cơ quan 
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. 
Đoạn thơ còn dựng lại những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến Việt Bắc. Câu thơ đối ý mà nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của người dân VB dù cuộc sống còn rất gian khổ, khó khan 
- Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc : êm ả, bình dị, tiếng chày hòa trong tiếng suối xa: 
 “Nhớ sao tiếng mõ suối xa” 
Âm thanh "tiếng mõ rừng chiều" và "chày đêm nện cối đều đều suối xa" là âm thanh đặc trưng của Việt Bắc, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng, gợi nhớ một thời đã qua. 
=> Con người Việt Bắc nghèo khổ nhưng cần cù, thủy chung và sâu nặng ân tình 
*Tóm lại: 
-Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của TH. Điệp từ “nhớ” cùng lối so sánh đặc biệt để bộc lộ một cảm xúc thương nhớ dạt dào.Cách gieo vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm ái. Việc liệt kê một loạt những hình ảnh cùng địa danh của Việt Bắc đã khắc họa thật sâu nỗi niềm thương nhớ của một người chiến sĩ – thi sĩ đối với quê hương thứ hai của mình. 
-Đoạn thơ trên chính là bản tình ca về lòng chung thủy sắt son, chính là tiếng lòng của nhà thơ, hay cũng chính là của những người VN trong kháng chiến. Với những câu thơ dạt dào cảm xúc, TH đã thể hiện thành công tình cảm của người cán bộ dành cho thiên nhiên, nhân dân Việt Bắc 
5 . Bộ tranh tứ bình: Cảnh thiên nhiên và con người hòa quyện thắm thiết (Đoạn 7) 
- Hai câu đầu đoạn thơ, tác giả giới thiệu chung về cảm xúc: 
 + Câu hỏi tu từ "Ta về mình có nhớ ta?" 
 L à cái cớ để người ra đi bày tỏ tấm lòng mình: " Ta về cùng người" 
 + Hình ảnh "hoa cùng người" 
 G ợi lên sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người trong bức tranh quê hương Việt Bắc. Trong nỗi nhớ của người đi, cảnh vật lẫn con người Việt Bắc hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất. 
- Tám câu sau: bức tranh cụ thể của quê hương Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi: 
+ Cảnh và người : có sự hòa quyện bở i cách sắp xếp độc đáo theo lối xen kẽ: câu lục tả cảnh, câu bát tả người. 
 + T hiên nhiên Việt Bắc : tác giả tạo dựng một bộ tranh tứ bình về Việt Bắc theo chủ đề Xuân – Hạ – Thu – Đông , miêu tả diễn biến theo bốn mùa, mỗi mùa có nét đặc trưng riêng, tạo nên một bức tranh tứ bình rất đẹp . 
o Vào mùa đông : “Rừng xanh thắt lưng” 
 . Trên cái nền xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc, xuất hiện những hoa chuối " đỏ tươi" như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh. 
 Sự đối chọi hai màu xanh– đỏ làm trẻ lại màu xanh trầm tịch của rừng già và xua tan đi cái lạnh lẽo của mùa đông vùng ca o . 
Hình ảnh " dao gài thắt lưng" phản quang "ánh nắng" 
 Hình ảnh con người r ất gợi cảm, tạo thành điểm sang , con người trở nên nổi bật, trở thành trung tâm của bức tranh. 
o Mùa xuân: “Ngày xuân sợi giang” 
 Xuân về,rừng hoa mơ bừng nở. 
 Chữ "trắng" : gợi lên một sắc trắng tinh khiết, mênh mang, một thế giới hoa mơ bao phủ sức xuân ngập tràn đất trời núi rừng Việt Bắc. 
Mùa xuân trong sáng, tinh khôi và đầy sức sống. 
Sức xuân nơi núi rừng và cảm giác ngây ngất trong lòng người ngắm cảnh. 
 Nhớ người thợ đan nón " chuốt từng sợi giang" 
 Động từ "chuốt": vừa gợi lên sự khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ của con người Việt Bắc. 
o Mùa hạ: “Ve kêu .... một mình” 
Nhớ Việt Bắc mùa hè: là nhớ tiếng ve râm ran làm nên khúc nhạc rừng sôi động , nhớ màu vàng của “ rừng phách đổ vàng ” 
 Với từ " đổ ", biểu thị sự chuyển màu đồng loạt 
(N gười đọc có cảm giác dường như tiếng ve đã thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng). 
 . Hình ảnh cô thiếu nữ đi "hái măng một mình" giữa rừng vầu, rừng nứa, rừng trúc: không hề lẻ loi, cô đơn mà chịu khó tận tụy với công việc. 
 o Mùa thu Việt Bắc : không kém phần nên thơ: 
 “Rừng thu 
 thủy chung” 
( Nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu. Trăng "rọi" qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi ) 
 G ợi lên cảnh sống yên ả, " hoà bình ”, nên thơ. 
 Nhớ con người Việt Bắc luôn lạc quan, họ ca hát về mối ân tình thuỷ chung với cách mạng. 
Như vậy: Với kết cấu đan xen, đoạn thơ làm nổi bật vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và con người: 
 Thiên nhiên Việt Bắc : tươi đẹp, con người Việt Bắc : bình dị, chịu thương chịu khó, đầy nghĩa tình. 
 ( Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, những con người Việt Bắc đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến ) 
6. Thiên nhiên Việt Bắc tạo thành thế trận đánh giặc- niêm vui chiến thắng: Đoạn 8 
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng 
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây 
Núi giăng thành lũy sắt dày 
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù 
Mênh mông bốn mặt sương mù 
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng. 
Ai về ai có nhớ không? 
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng 
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng 
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...” 
*Khái quát: Trong nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi hiện về những ngày tháng gian khổ kháng chiến, cùng với thiên nhiên Việt Bắc cảnh vật nơi đây đã tạo ra một trận địa phức tạp. Đồng thời thể hiện niềm tự hào thầm kín của nhà thơ với chiến khu Việt Bắc với cuộc kháng chiến hào hùng. 
“Nhớ khi giặc đánh giặc lùng 
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây 
Núi giăng thành lũy sắt giày 
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.” 
-Trong những ngày đầu kháng chiến gian khỏ của giai đoạn phòng ngự, bộ đội phải dựa vào dân, dựa vào núi rừng Việt Bắc hiểm trở để đánh địch. Trước giờ khắc quyết định của lịch sử, không chỉ nhân dân mà cả núi rừng cùng đều vùng lên, chung sức đánh Tây. Với cuộc kháng chiến đầy gian lao của quân và dân Việt Bắc, núi rừng cũng trở nên có chí, có tình người, đã trở thành những người bạn, những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của toàn quân. 
-Chỉ với bốn câu thơ, chữ “rừng” và “núi” được lặp đi lặp tạo nên thế hiểm của trường thành của lũy thép vây bọc quân thù. Rừng cây núi đá “ta cùng” đánh Tây, bằng phép nhân hóa, rừng bạt ngàn cây, với núi bao la đó để rồi trên dưới một lòng cùng con người đánh đuổi quân xâm lược . Đồng thời thể hiện tình cảm giữa con người kháng chiến và thiên nhiên núi rừng Việt Bắc rất tha thiết, bao la. 
+Núi thì giăng thành lũy, rừng thì đảm nhận hai công việc . Như một người mẹ che chở cho con mình, rừng bao bọc cho bộ đội trước mặt kẻ thù cướp nước. Rừng trở nên kiên quyết đến dữ dằn cùng với việc vây quân thù để tiêu diệt, cái trùng trùng điệp điệp của rừng, cái khí thế hiên nagng kiêu hùng của những vách núi đã làm cho biết bao kẻ thù khiếp sợ và bất lực 
 -Chiến khu Việt Bắc với thiên nhiên khắc nghiệt, vừa hùng tráng vừa thơ mộng ở cặp lục bát tiếp theo là hình ảnh thiên nhiên, đất trời Việt Bắc trong giai đoạn kháng chiến, chiến khu giải phóng được mở rộng hơn. 
“Mênh mông bốn mặt sương mù 
Đất trời ta cả chiến khu một lòng” 
+Trời đất bị chìm lấp trong cả màn sương giăng khắp nơi, khiến cho khung cảnh chiến đấu trở nên uy linh, lãng mạn, “mênh mông bốn mặt sương mù”, chiến khu mang nét đặc trưng rộng lớn, đồng thời thể hiện sự phát triển của kháng chiến, 
+“Đất trời ta cả” khẳng định quyền làm chủ vùng giải phóng, và sự tương phản “Mênh mông bốn mặt” và “chiến khu một lòng”: Cả vũ trụ, núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng nhìn về một hướng, đang hướng về cuộc chiến đấu , hướng về sứ mệnh bảo vệ quê hương đất nước yêu dấu của mình thầm thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. 
-Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã làm nên những chiến công vang dội , hàng loạt những địa danh vang lên, mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh quang. 
“Ai về ai có nhớ không ? 
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng 
Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng 
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.” 
-Bằng câu hỏi tu từ thể hiện niềm vui to lớn trước chiến thắng vẻ vang của dân tộc.. Bằng phép liệt kê các địa danh ở Việt Bắc gắn liền với những sự kiện quan trọng như Phủ Thông, đèo Giàng, là nơi đã diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống pháp, là những chiến công tiêu biểu góp phần quan trọng, mang tính quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Những bước đầu quan trọng ấy đã làm thay đổi cục diện chiến trường, tạo thế và lực cho cuộc kháng chiến, củng cố niềm tin vào thắng lợi cuối càng. Cùng với điệp từ “nhớ ” nhớ đến những trận đánh, những chiến công oanh tạc như thế là niềm tự hào của cá nhân những người tham gia kháng chiến. 
 Tóm lại Đoạn thơ cũng khắc họa được hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc trù phú, dữ dội nhưng cũng rất lãng mạng và “bao la”, khắc họa được hình ảnh người cán bộ về xuôi có tình cảm sâu nặng gắn bó với thiên nhiên, với cách mạng. Đồng thời thể hiện niềm tin vào chiến thắng cuối cùng của quân và dân ta và khẳng định một điều: Việt Bắc chính là cái nôi, nuôi dưỡng cách mạng. 
7 . Hồi tưởng của người ra đi về khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong chiến đấu , Niềm vui Chiến thắng) : Đoạn 9 
Những đường Việt Bắc của ta 
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung 
Quân đi điệp điệp trùng trùng 
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan 
Dân công đỏ đuốc từng đoàn 
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. 
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày 
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên. 
Tin vui chiến thắng trăm miền 
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về 
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê 
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. 
 - Việt Bắc từng khắc ghi những kỉ niệm về những cuộc hành quân ra trận thật hùng vĩ của bộ đội và nhân dân: 
	 “Những đường Việt Bắc của ta 
 Đêm đêm rầm rập như là đất rung ”. 
+ Từ láy tượng thanh "rầm rập": 
 D iễn tả tiếng bước chân mạnh mẽ của cuộc hành quân, gợi lên nhịp độ khẩn trương, gấp gáp của số lượng người đông đảo , một không khí kháng chiến đông vui, nhộn nhịp , mạnh mẽ của một một tập thể lớn T ạo thành một sức mạnh tổng hợp làm rung chuyển mặt đất. 
 + Hình ảnh so sánh, cường điệu: 
"Đêm đêm rầm rập như là đất rung" 
 N êu bật sức mạnh đại đoàn kết của quân dân ta, chung sức chung lòng đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.. 
- Hình ảnh bộ đội ta hành quân ra trận: 
 " Quân đi mũ nan" 
+ Từ láy "điệp điệp trùng trùng": 
 K hắc họa đoàn quân đông đảo bước đi mạnh mẽ như những đợt sóng dâng trào, tưởng chừng như kéo dài đến vô tận. 
 + Hình ảnh vừa hiện thực vừa ẩn dụ: "ánh sao đầu súng" 
 Á nh sao trong đêm tối sáng ngời đầu mũi súng, ánh sao của lí tưởng dẫn đường cho người chiến sĩ đánh đuổi kẻ thù xâm lược 
Những hình ảnh này diễn tả sự sát cánh kề vai của mọi lực lượng trên đất nước VN , từ bộ đội chính quy đến dân quân du kích , từ con người đến thiên nhiên sông núi vũ trụ , tất cả hợp thành một khối đoàn kết vững vàng , có sức mạnh vũ bão . Hình ảnh “ ánh sao đầu súng” gợi nhắc đến vẻ đẹp của những chiến sĩ kiên trung mà vẫn lãng mạn yêu đời trong thơ Chính Hữu 
“ Đêm nay rừng hoang sương muối 
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới 
Đầu súng trăng treo”.-> T hể hiện niềm tin lạc quan chiến thắng trong tâm hồn người lính ra trận. 
+ Cùng hành quân với bộ đội là những đoàn dân công phục vụ chiến đấu: "Dân công lửa bay" 
+ Những bó đuốc đỏ rực soi đường: 
 L àm sáng bừng hình ảnh những đoàn dân công tiếp lương tải đạn. Họ đến từ nhiều miền quê với đủ mọi phương tiện chuyên chở, quyết tâm, kiên cường vượt núi đèo để đảm bảo sức mạnh cho bộ đội chiến đấu và chiến thắng . Câu thơ ca ngợi lòng nhiệt tình, sự hăng hái , sự đông đảo và sức mạnh khiến thiên nhiên phải khuất phục của những đoàn dân công.Sức mạnh bạt núi san rừng , tinh thần làm việc bất kể đêm ngày của họ khiến cho núi cao cũng phải cúi đầu , đêm tối cũng phải bừng sáng . 
+ Hình ảnh cường điệu: 
“ B ước chân nát đá" 
 K hẳng định ý chí phi thường, sức mạnh to lớn của nhân dân trong kháng chiến. 
-Những đoàn xe vận tải càng làm cho không khí những con đường kháng chiến thêm phấn chấn : 
Nghìn đêm thăm thẳm sương dàyĐèn pha bật sáng như ngày mai lên 
+Tác giả sử dụng những từ chỉ số nhiều “ nghìn đêm” kết hợp với các từ láy thăm thẳm để khắc hoạ những khó khăn gian nan của kháng chiến nhưng với sức mạnh và lòng quyết tâm , những đoàn xe vận tải vẫn vượt qua đêm tối , đèo cao mây mù , sương dày để vận chuyển vũ khí lương thực tới tiền tuyến . 
+Biện pháp so sánh phóng đại “ đèn pha bật sáng như ngày mai lên”, đối lập giữa bóng tối và ánh sáng vừa thể hiện khí thế sôi nổi , hào hùng , vừa bộc lộ niềm vui sướng hi vọng , tin tưởng vào tương lai tất thắng  
- Tám câu thơ trên sử dụng nhiều từ láy , nhiều hình ảnh so sánh phóng đại , sử dụng một loạt những từ chỉ số nhiều , những hình ảnh giàu sức gợi , âm điệu và nhịp điệu thơ khoẻ khắn , dồn dập đã tái hiện sự hùng tráng , khí thế sôi nổi của Việt bắc trong kháng chiến . Sự hào hùng ấy biểu hiện rõ trên con đường Việt Bắc trải dài bất tận, có sự hoà hợp tiếp nối của mọi lực lượng từ bộ đội du kích dân công đến những đoàn xe vận tải . 
Mở đường vào Điện Biên Phủ. 
Mở đường vào Điện Biên Phủ. 
-Con đường đi đến tiền tuyến là con đường đến chiến thắng .  
Tin vui chiến thắng trăm miền  ..Vui lên VB , đèo De , núi Hồng 
Trong 4 câu thơ , tác giả đã liệt kê một loạt 8 địa danh , kết hợp với điệp từ vui , nhịp thơ nhan h, mạnh , dồn dập bộc lộ 1 cách sâu sắc niềm sung sướng về chiến thắng của dân tộc . C ho thấy tốc độ thần kì của chiến thắng, niềm vui như lan tỏa đi và từ khắp nơi bay về Việt Bắc. Chiến thắng ấy trải dài khắp mọi miền Tổ quốc tạo nên ngày hội chiến thắng của toàn thể dân tộc ta . 
=> Đoạn thơ vừa đậm chất sử thi vừa giàu tính lãng mạn khắc họa sâu sắc cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, đầy gian khổ hi sinh nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc. 
Nhớ những kỉ niệm về đồng bào VB với chính phủ và cán bộ k/c) 
 Đoạn 10 
Ai về ai có nhớ không 
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang 
Nắng trưa rực rỡ sao vàng 
Trung ương chính phủ luận bàn việc công 
Điều quân chiến dịch thu đông 
Nông thôn phát động giao thong mở đường 
Giữ đê phòng hạn thu lương 
Gửi dao miền ngược thêm trường các khu” 
-Câu hỏi tu từ: Ai về .không	 
Nhắn nhủ, gợi nhắc những người kháng chiến kỉ niệm về đồng bào VB với chính phủ và cán bộ k/c 
-Hình ảnh “ngọn cờ, sao vàng, nắng trưa” đẹp, đầy lạc quan, niềm vui cách mạng, ngôn ngữ giàu hình ảnh, niềm tin cách mạng, niềm tin và đầy hứng khởi vào cuộc kháng chiến nhất định sẽ thắng lợi, ẩn sau là cảm xúc của tg 
-Hình ảnh Chính phủ, điều quân .là hình ảnh đẹp đẽ nhất, trung tâm nhất của cuộc k/c, Việt Bắc còn là trái tim, đầu não của cuộc kháng chiến, là nơi các chủ trương của Đảng và Chính phủ toả đi khắp nước, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng: nơi đã phát đi những chỉ thị, những mệnh lệnh sang suốt, chỉ đạo cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng 
-Nghệ thuật: lời người ở lại, đối đáp kẻ ở người đi, ngôn ngữ lục bát bình dị dễ hiểu, ngắt nhịp, đối trong một dòng thơ, câu hỏi tu từ, hình ảnh giàu giá trị biểu cảm 
Khái quát: Đoạn thơ là tình cảm sâu sắc gắn bó, khúc ân tình thiết tha thủy chung của người ở và kẻ đi; thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân VB với cm và của người cán bộ với VB. Thể hiện tình cảm biết ơn sâu nặng của tác giả với VB 
9. Hình ảnh Bác Hồ- linh hồn của cuộc kháng chiến (Đoạn 11) 
Ở đâu u ám quân thù 
Nhìn lên Việt Bắc : Cụ Hồ sang soi 
Ở đâu u ám giống nòi 
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền 
Mười lăm năm ấy ai quên 
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa 
Mình về mình lại nhớ ta 
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào 
*Đoạn thơ cuối ca ngợi hình 
ảnh Bác Hồ 
linh hồn của cuộc kháng chiến 
 và ca ngợi 
chiến khu VB 
-VB là niềm tin niềm hi vọng vào cuộc kháng chiến nhất định sẽ thành công 
+Bác Hồ linh hồn của cuộc kháng chiến, là nơi gưi gắm bao niềm hi vọng của nhân dân cả nước, là nơi hội tụ sm của toàn dân 
“Ở đâu u ám quân thù 
Nhìn lên Việt Bắc : Cụ Hồ sang soi” 
+Việt Bắc luôn là chiến khu vững vàng, là nước VN thu nhỏ 
“Ở đâu đau đớn giống nòi 
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền 
Mười lăm năm ấy ai quên 
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa” 
+ Bác Hồ và chiến khu VB là biểu tượng thiêng liêng cho niềm tin niềm lạc quan cách mạng của nhân dân cả nước 
+Thể thơ lục bát, lối đối đáp mình ta một lần nữa được nhắc lại, ngôn ngữ bình dị dễ hiểu góp phần làm nên chất nhạc của bài thơ và đoạn thơ nói trên 
Chiến sĩ Bế Văn Đàn, tiêu biểu cho tinh thần quyết chiến quyết thắng của toàn quân 
 - Tố Hữu còn đi sâu lí giải những cội nguồn sức mạnh dẫn tới chiến thắng: 
 + Sức mạnh của lòng căm thù: 
“Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” 
 + Sức mạnh của tình nghĩa thuỷ chung: 
 “Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi” 
 + Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân: 
“Nhớ khi giặc một lòng” 
 (T ất cả tạo thành hình ảnh đất nước đứng lên ) 
 b. Vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến: 
- “Mình về, có nhớ núi non, 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.” 
Lễ thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân 
+ Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, nơi khai sinh những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc. 
Ñình Hoàng Thaùi 
Caây ña Taân Traøo 
Bác Hồ làm việc tại chiến khu Việt Bắc 
 + Việt Bắc là niềm tin, là hi vọng, niềm mong đợi của cả dân tộc, của những con người Việt Nam yêu nước vì Việt Bắc có Bác Hồ, có Chính phủ sống và làm việc: 
 “ Ở đâu u ám quân thù, 
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền” 
4. Nghệ thuật đậm đà tính dân tộc: 
a. Về thể loại: 
- Sử dụng thể thơ: lục bát, một thể thơ truyền thống mang vẻ đẹp cổ điển. 
- Cấu tứ bài thơ: là cấu tứ ca dao với lối đối đáp của hai nhân vật trữ tình “: "mình" - "ta". 
- Sử dụng hình thức tiểu đối của ca dao: vừa nhấn mạnh ý vừa tạo ra nhịp thơ cân xứng, uyển chuyển, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tư: 
 + “Nhìn cây nhớ núi/nhìn sông nhớ nguồn” 
 + “Bâng khuâng trong dạ / bồn chồn bước đi” 
 + “Trám bùi để rụng,/ măng mai để già” 
 + “Nông thôn phát động,/ giao thông mở đường.” 
b. Về ngôn ngữ: 
- Sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân : rất giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất sinh động 
 ( Đ ể tái hiện một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào nghĩa tình ) 
+ Đó là thứ ngôn ngữ rất giàu hình ảnh cụ thể: 
“ Nghìn đêm thăm thẳm sương dày ” 
“Nắng trưa rực rỡ sao vàng ” 
+ Cũng là thứ ngôn ngữ giàu nhạc điệu: 
“ Chày đêm nện cối đều đều suối xa” 
“ Đêm đêm rầm rập như là đất rung ” 
- Sử dụng nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gian: 
 + “ Mình về , mình có nhớ ta” 
 “ Mình về , có nhớ chiến khu” 
 + “ Nhớ sao lớp học i tờ” 
 “ Nhớ sao ngày tháng cơ quan” 
 “ Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều” 
 T ạo giọng điệu trữ tình tha thiết, ngọt ngào,như đưa ta vào thế giới của kỷ niệm và tình nghĩa thuỷ chung. 
III. Tổng kết : 
GHI NHỚ ( SGK) 

Tài liệu đính kèm:

  • pptbai_giang_ngu_van_lop_12_tiet_1921_viet_bac_trich_pham_thi_l.ppt