Bài giảng Ngữ Văn Khối 12 - Tuần 9: Việt Bắc (tiếp theo)

Bài giảng Ngữ Văn Khối 12 - Tuần 9: Việt Bắc (tiếp theo)

Ý nghĩa nhan đề:

Nhan đề bài thơ chỉ vẻn vẹn hai chữ «Việt Bắc» đã tạo sự tò mò trong lòng người đọc. Tuy không có từ «nhớ» nhưng nhan đề cho ta thấy như đây là một «bức nhật kí» về núi rừng Việt Bắc

 

pptx 70 trang Hoài Vân Nam 05/07/2023 500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ Văn Khối 12 - Tuần 9: Việt Bắc (tiếp theo)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Bắc 
- Tố Hữu 
Cấu trúc 
I 
Vài nét về tác giả, tác phẩm 
II 
Đọc – hiểu tác phẩm 
III 
Tổng kết 
I. Vài nét về tác giả tác phẩm 
1. Tác giả 
Nhà thơ Tố Hữu là chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ. 
Thơ ca là vũ khí, là phương tiện để thể hiện lí tưởng cách mạng 
Đối tượng của thơ ca là đồng bào, đồng chí, những người trực tiếp hoạt động cách mạng 
Thơ Tố Hữu mang tính chất dân tộc rất đậm đà 
Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị như lời tâm sự chứa chan niềm tin yêu với đồng bào, đồng chí, tác động mạnh mẽ tới cảm nghĩ người đọc và người nghe 
2. Tác phẩm 
Việt Bắc là bản hùng ca của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp, phản ánh những chặng đường gian lao, anh dũng và thắng lợi của dân tộc 
Hoàn cảnh sáng tác 
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ «lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu» và tháng 7/1954 , hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình được lập lại ở miền Bắc. Tháng 10 năm 1954, ngay sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội 
Thể loại và kết cấu 
Bài thơ viết theo thể thơ lục bát với lối đối đáp mình – ta. 
Trong lối đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ “mình – ta” với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi thứ hai. Đó là sự phân thân tâm trạng 
Chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại của chính nhân vật trữ tình đang đắm mình trong hoài niệm về quá khứ gian khổ mà tươi đẹp, ấm áp nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát vọng về tương lai tươi sáng 
Ý nghĩa nhan đề 
Nhan đề bài thơ chỉ vẻn vẹn hai chữ «Việt Bắc» đã tạo sự tò mò trong lòng người đọc. Tuy không có từ «nhớ» nhưng nhan đề cho ta thấy như đây là một «bức nhật kí» về núi rừng Việt Bắc 
Giới thiệu về Việt Bắc 
Việt Bắc là căn cứ địa cách mạng ra đời sớm nhất và lớn nhất trong thời kỳ chuẩn bị Cách mạng tháng Tám 1945, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1946-1954 ). 
Việt Bắc là một vùng núi hiểm trở gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, trong đó các huyện Sơn Dương, Chiêm Hóa, Na Hang, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Chợ Đồn, Chợ Rã đã được chọn làm ATK 
Ta dựa vào núi rừng Việt Bắc càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn và từng bước giành quyền chủ động; còn địch ngày càng bị động đối phó và càng thất bại. Nhờ vậy, cuộc kháng chiến đã kết thúc bằng trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”. 
Giới thiệu về Việt Bắc 
- Người dân tộc chủ yếu sống ở Việt Bắc là người Tày và người Nùng 
Bố cục 
8 câu đầu: Lời hỏi thứ nhất của người ở lại và lời đáp thứ nhất của người ra đi 
12 câu tiếp: Lời hỏi thứ hai của người ở lại 
68 câu còn lại: Lời đáp thứ hai của người ra đi 
II. Đọc – hiểu văn bản 
1. Ý nghĩa của lối đối đáp mình - ta 
Đại từ xưng hô ta – mình phổ biến trong ca dao: 
«Mình về có nhớ ta chăng 
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười» 
«Mình về ta chẳng cho về 
Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ» 
«Mình về mình có nhớ chăng 
Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình . 
Ta về ta cũng nhớ mình 
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao .» 
1. Ý nghĩa của lối đối đáp mình - ta 
Tố Hữu dùng hai đại từ ấy để gợi không khí ca dao làm cho tình cảm giữa người đi - kẻ ở, giữa người cán bộ về xuôi và nhân dân Việt Bắc thêm gần gũi, thân mật, tự nhiên và chân tình 
Thực chất đây là sự phân thân của cái tôi trữ tình thống nhất. 
Lời đáp là sự tán đồng, mở rộng, làm cụ thể và phong phú thêm những ý tình trong lời hỏi , có khi trở thành lời đồng vọng, không phân biệt người hỏi, người đáp và cùng ngân vang trong tình cảm chung 
2 . 8 câu thơ đầu - Lời hỏi thứ nhất của người ở lại và lời đáp thứ nhất của người ra đi 
a. Lời ướm hỏi của người ở lại 
Lời hỏi của cô gái Việt Bắc (người ở lại) hướng tới chàng trai cán bộ (người ra đi) trong buổi chia tay được xưng hô theo lối đối đáp của ca dao: «mình – ta» 
«có nhớ ta»: «ta» là cô gái dân tộc Tày hoặc Nùng, suy rộng ra là đồng bào Việt Bắc 
«mười lăm năm ấy»: tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn (1940) đến thời điểm hiện tại (10/1954) 
-> Khoảng thời gian dài, bằng thời gian «Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình» của Kim – Kiều 
=> Đây không phải là cuộc chia tay của những cá nhân hay kỉ niệm bình thường mà là cuộc chia tay giữa những người đồng chí và đồng bào trong suốt mười lăm năm trời gắn bó chống thực dân Pháp 
Mình về mình có nhớ ta 
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng 
Mình về mình có nhớ không 
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? 
a. Lời ướm hỏi của người ở lại 
Điệp cấu trúc «mình về mình có nhớ» tuy là câu hỏi nhưng đó là lời tự nhắc của tác giả đối với bản thân mình rằng có quên cảnh vật và thời gian hoạt động ở Việt Bắc hay không? 
Câu hỏi thứ hai như nhắc rằng người ra đi hãy nhớ về nơi «mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng». 
=> Lời hỏi đã khơi dậy cả một kí ức đầy kỉ niệm, khơi nguồn cho mạch nhớ thương tuôn chảy 
Mình về mình có nhớ ta 
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng 
Mình về mình có nhớ không 
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? 
b. Tiếng lòng của người về xuôi bâng khuâng lưu luyến 
“ tiếng ai” đầy tha thiết ấy chính là những lời nhắn dạt dào tình cảm của người dân Việt Bắc. “Bên cồn” gợi ra không gian đơn sơ của buổi chia tay . 
“ Bâng khuâng” nghĩa là cảm xúc nhớ nhung luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn; “Bồn chồn” từ láy chỉ cảm xúc day dứt, hồi hộp nôn nao trong lòng bước đi cũng theo dòng cảm xúc mà ngập ngừng, bịn rịn. 
“Áo chàm” hình ảnh hoán dụ cho con người núi rừng Việt Bắc lam lũ khó nghèo nhưng đậm đà tình nghĩa . 
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay: cách ngắt nhịp 3/3/2 có sự thay đổi so với nhịp thơ đều đặn của thể thơ lục bát diễn tả trọn vẹn giây phút chia tay xao xuyến, ngập ngừng sâu lắng. 
Dấu “ ” ở cuối đoạn thơ nhưng một nốt lặng trên khuông nhạc, niềm thương nỗi nhớ vang ra mãi, hoà vào không gian mênh mông của sóng lòng, sóng tình. 
=> Cuộc chia tay không hề khiên cưỡng mà thầm kín, tình tứ thật tự nhiên 
Tiếng ai tha thiết bên cồn 
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi 
Áo chàm đưa buổi phân li 
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay 
Nghệ thuật khổ thơ 
Thể thơ lục bát cùng những biện pháp nghệ thuật như hoán dụ, câu hỏi tu từ cùng với ngôn ngữ thơ trong sáng, giọng điệu thiết tha trìu mến làm cho người đọc dù chưa một lần đặt chân lên Việt Bắc như được sống lại trong giây phút chia li bịn rịn mà nghĩa tình ấy 
3 . Mười hai câu tiếp theo – Lời hỏi của «người ở lại» gợi nhắc nhớ ân tình cách mạng và kháng chiến 
Kỉ niệm kháng chiến gian khổ trong 15 năm 
Sự gắn bó giữa Thiên nhiên, con người Việt Bắc với cán bộ về xuôi 
Sự kiện lịch sử gắn với địa danh chiến khu Việt Bắc 
a. Kỉ niệm chiến đấu gian khổ trong 15 năm 
Câu hỏi tu từ và điệp ngữ «có nhớ» như lời nhắc khéo về những kỉ niệm 
«Mưa nguồn», «suối lũ», «những mây cùng mù»: là sự khắc nghiệt của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc -> hình ảnh ẩn dụ nói lên cảnh «ăn sương nằm đất», «nằm gai nếm mật» 
+ Mưa rừng và những dòng suối trong mùa lũ là nỗi khiếp sợ đối với những ai chứng kiến. Nó có thể cuốn trôi những gì nó quét qua 
+ Một đặc điểm nữa là sương mù. Có những đỉnh núi chạm đến tận mây, lúc hành quân mà không thấy đường. 
-> cảm giác ớn lạnh, suốt đời không thể nào quên 
«miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai» 
+ Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến, chúng ta phải tiết kiệm vì tài lực và vật lực chưa đủ, các chiến sĩ phải ăn nắm cơm chấm muối -> quặn lòng 
+ Gạt qua những khó khăn, «ta» và «mình» cùng gánh trên vai lí tưởng giải phóng dân tộc và phải trả «mối thù nặng vai» -> Cái chung đặt trên cái riêng 
=> Tố Hữu không phải viết ra để kể khổ mà viết ra để «họa mây lẩy trăng» làm bật lên vẻ đẹp tình nghĩa của người cán bộ về xuôi 
Mình đi, có nhớ những ngày 
Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mù 
Mình về, có nhớ chiến khu 
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai 
b . Sự gắn bó giữa Thiên nhiên, con người Việt Bắc với cán bộ về xuôi 
«rừng núi nhớ ai» là hình ảnh đặc sắc 
+ «rừng núi» là hoán dụ chỉ người dân Việt Bắc 
+ «Ai» là ẩn dụ chỉ người cán bộ về xuôi 
Vừa hỏi chính mình và cũng vừa hỏi người đi 
«trám bùi để rụng, măng mai để già» -> nỗi bùi ngùi, thương nhớ. «rụng», «già» và «rời đi» thuộc trường từ vựng cách xa -> Một ngày sẽ cách biệt 
Mình về, rừng núi nhớ ai 
Trám bùi để rụng, măng mai để già 
Mình đi, có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng son 
b . Sự gắn bó giữa Thiên nhiên, con người Việt Bắc với cán bộ về xuôi 
«Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son» 
+ Hình ảnh đảo ngữ để chỉ những ngôi nhà của người dân Việt Bắc «những nhà lau xám hiu hắt» gợi lên nỗi buồn hiu quạnh. 
+ Tương phản với bên trong ngôi nhà là những trái tim «đậm đà lòng son» luôn hướng về cách mạng 
=> Nhà thơ tô đậm tấm lòng của nhân dân Việt Bắc – những con người thủy chung, ân tình và từ đó làm nên nhiều chiến thắng lớn của cách mạng, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ 
Mình về, rừng núi nhớ ai 
Trám bùi để rụng, măng mai để già 
Mình đi, có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng son 
c . Sự kiện lịch sử gắn với địa danh chiến khu Việt Bắc 
Nhớ núi non không chỉ là cảnh vật mà còn là những địa danh trong «mười lăm năm ấy» 
Khi kháng Nhật: năm 1940, Nhật tràn vào nước ta và nhân dân ta chịu cảnh «một cổ hai tròng» 
Thuở còn Việt Minh: ngày 19/5/1941, Việt Minh ra đời nhằm kêu gọi mọi lực lượng đứng về phía Đồng Minh đánh đuổi giặc ngoại xâm 
=> Trở thành mấu chốt cho thắng lợi sau này 
Mình về, có nhớ núi non 
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh 
Mình đi, mình có nhớ mình 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa. 
Tư liệu về Việt Minh 
Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh ra đời thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ giúp đỡ các dân tộc Lào và Campuchia thành lập mặt trận dân tộc của nước mình. Mặt trận Việt Minh lấy lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh làm huy hiệu, khẩu hiệu chính là: phản Pháp - kháng Nhật - liên Hoa - độc lập. 
Về tổ chức: Mặt trận Việt Minh được tổ chức theo hệ thống từ Trung ương đến cơ sở: Ở cấp xã có Ban Chấp hành Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra; ở cấp tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kỳ có Ban Chấp ủy Việt Minh của mỗi cấp tương ứng; ở cấp toàn quốc có Tổng bộ Việt Minh. 
Về chủ trương: Mặt trận Việt Minh liên hiệp hết thảy các từng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở; giúp đỡ Ai Lao Độc lập Đồng minh và Cao Miên Độc lập Đồng minh để cùng thành lập Đông Dương Độc lập Đồng minh. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng nǎm cánh làm lá cờ toàn quốc. 
Tháng 10/1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ, thể hiện chủ trương cứu nước của Đảng: “Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Chương trình của Việt Minh được tóm tắt thành “Mười chính sách của Việt Minh” và phổ biến trong nhân dân. Đây là lần đầu tiên một Mặt trận Dân tộc Thống nhất trình bày công khai đường lối, chính sách, phương pháp tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu nước của mình. 
c . Sự kiện lịch sử gắn với địa danh chiến khu Việt Bắc 
Mình đi mình lại nhớ mình: “nhớ mình” – tức là nhớ người ở lại nhưng cũng như là nhắc nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình . 
Hình ảnh liệt kê 
+ Cây đa Tân Trào (22/12/1944) là nơi đại tướng Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân 
+ Mái đình Hồng Thái là nơi Bác Hồ chủ trì cuộc họp quyết định Tổng khởi nghĩa trong cả nước, làm nên cách mạng tháng 8/1945 
=> Hai địa điểm này là «chứng nhân lịch sử» in dấu chân trưởng thành của lực lượng kháng chiến. Những nơi ấy đánh dấu cho hành trình «Pháp chạy, Nhật hàng, Bảo Đại thoái vị» 
Mình về, có nhớ núi non 
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh 
Mình đi, mình có nhớ mình 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa. 
Nghệ thuật khổ thơ 
– Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bát đậm chất dân gian, những cặp câu thơ lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu dòng lục bát tạo thành một điệp khúc âm thanh: nó đan dày thành những cấu trúc thanh bằng – trắc – bằng tạo ra nhạc điệu ngân nga trầm bổng nhẹ nhàng, khoan thai. 
– Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân xứng, hô ứng về câu trúc, nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù ; Miếng cơm chấm muối / mối thù nặng vai ; Trám bùi để rụng / măng mai để già Có những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có những cặp tiểu đối vế đầu nói về hiện thực gian khổ, vế còn lại khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc son sắt thủy chung. Người đọc như gặp lại hồn xưa dân tộc trong những trang thơ lục bát của Tố Hữu. 
3. 68 câu còn lại: Lời đáp thứ hai của người ra đi – Lời thề thủy chung, son sắt và nỗi nhớ cảnh vật nơi núi rừng Việt Bắc 
a. Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ 
- Ta với mình, mình với ta 
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh 
Mình đi, mình lại nhớ mình 
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu 
Nhớ gì như nhớ người yêu 
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương 
Nhớ từng bản khói cùng sương 
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. 
Nhớ từng rừng nứa bờ tre 
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy. 
* Lời thề đinh ninh thủy chung, son sắt 
Bốn câu thơ đáp ứng ngay thắc mắc dồn dập của người ở lại 
«Ta với mình», «mình với ta» thể hiện sự quấn quýt, hòa quyện giữa kẻ ở và người đi 
«Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh» trước sau như một, không thay đổi theo thời gian. Đó là nét đẹp «Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn – Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ» 
«Mình đi, mình lại nhớ mình» đáp lại câu «mình đi, mình có nhớ mình»; «nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu» để đáp lại câu «Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu» và «mưa nguồn, suối lũ những mây cùng mù» -> Nước trong nguồn bao la, vô tận và không bao giờ vơi cạn 
=> Tình cảm của cán bộ về xuôi với nhân dân Việt Bắc không bao giờ vơi cạn 
Ta với mình, mình với ta 
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh 
Mình đi, mình lại nhớ mình 
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu 
* Nỗi nhớ về thiên nhiên bình dị, thơ mộng với nhịp sống êm đềm, đầm ấm 
So sánh: «nhớ gì như nhớ người yêu» gần với ca dao «nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa, như ngồi đống than». «gì» có thể là bản, là mế, là ngày tháng cơ quan... -> Nỗi nhớ được ví như nỗi nhớ người yêu cho thấy sự cồn cào và da diết 
Điệp ngữ «nhớ», «nhớ từng» và liệt kê «nắng chiều lưng nương», «bản khói cùng sương», «sớm khuya bếp lửa», «rừng nứa bờ tre», «Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy» => Hình ảnh Việt Bắc thân thương, gần gũi, bình dị mà thơ mộng với nhịp sống êm đềm, đầm ấm. 
Nhớ gì như nhớ người yêu 
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương 
Nhớ từng bản khói cùng sương 
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. 
Nhớ từng rừng nứa bờ tre 
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy. 
* Nỗi nhớ về thiên nhiên bình dị, thơ mộng với nhịp sống êm đềm, đầm ấm 
+ Câu thơ « Sớm khuya bếp lửa người thương đi về .» -> Hình ảnh lao động vất vả sớm khuya 
+ «Trăng lên – nắng chiều - sớm khuya» gợi lên nỗi nhớ sâu nặng bao trùm cả không gian, thời gian 
=> Dù dòng thời gian có thể trôi mãi, cảnh vật có thể đổi thay, cuộc kháng chiến có lúc thăng trầm như «ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy»nhưng lòng người sẽ không bao giờ thay đổi 
Nhớ gì như nhớ người yêu 
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương 
Nhớ từng bản khói cùng sương 
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. 
Nhớ từng rừng nứa bờ tre 
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy. 
b. Những ngày chiến đấu gian khổ, chia ngọt sẻ bùi nhưng con người Việt Bắc vẫn lạc quan, yêu đời 
Ta đi ta nhớ những ngày 
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi 
Thương nhau chia củ sắn lùi 
Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng. 
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng 
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô 
Nhớ sao lớp học i tờ 
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan 
Nhớ sao ngày tháng cơ quan 
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo 
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều 
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”. 
Câu thơ «Ta đi ta nhớ những ngày» khẳng định nỗi nhớ của người về xuôi dằng dặc theo thời gian. «những ngày ấy» là «mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng», là cùng mình «đắng cay ngọt bùi» 
- Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia : «Thương nhau chia củ sắn lùi - Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng» 
- Nhớ cả những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên nương bẻ bắp: Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô. 
- Nhưng cũng là nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: Nhớ sao ngày tháng cơ quan/ Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. 
– Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều/ Chày đêm nện cối đều đều suối xa. 
 Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những đường nét, âm thanh, thấm nghĩa đượm tình. Những câu thơ nói về mẹ, về trẻ thơ, về người thương yêu dấu cất lên nghe thật trìu mến. 
c. Bức tranh tứ bình 
Ta về, mình có nhớ ta 
Ta về ta nhớ những hoa cùng người 
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi 
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. 
Ngày xuân mơ nở trắng rừng 
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang 
Ve kêu rừng phách đổ vàng 
Nhớ cô em gái hái măng một mình 
Rừng thu trăng rọi hoà bình 
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.” 
Tứ bình 
Tranh Tứ Bình là dòng tranh có bố cục gồm 4 bức tranh, mỗi bức tranh biểu tượng cho các mùa trong năm: Xuân – Hạ – Thu – Đông . 
Bố cục tranh tứ bình như sau: 
Tranh tứ bình không giống với các bức tranh khác, nó là dòng tranh thể hiện các mùa trong năm nên bố cục của nó tuân theo đúng quy luật như sau: 
– Mùa xuân: có các loài hoa như hoa mai, hoa đào, hoa lan thì loài chim tương ứng là chim khổng tước (điển hình là hoa mai/chim điểu). 
– Mùa hạ: Cây trúc, hoa sen, hoa hồng, hoa lựu thì loài tương ứng chim công trống (điển hình là hoa hồng/chim công). 
– Mùa thu: Hoa cúc, hoa phù dung ứng với con gà ( điển hình là cúc/kê). 
– Mùa đông: Cây tùng (hay còn gọi là cây thông) loài cây đại diện cho mùa đông sẽ tương ứng với chim hạc (điển hình là tùng/hạc ). 
Mùa xuân đi thăm nơi cỏ mọc 
Mùa hạ thưởng thức ao sen xanh 
Mùa thu uống rượu cúc vàng 
Mùa đông ngâm thơ tuyết trắng 
Thôi Hiệu 
Hai dòng đầu là câu hỏi tu từ và lời khẳng định gợi nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc 
Một cặp câu lục bát mà có đến bốn từ «ta» -> dòng cảm xúc của người đi mênh mang, sâu lắng hơn 
«Ta về» đặt ra nỗi niềm từ giã 
Nỗi nhớ ở đây mượn nguyên màu sắc ca dao, là sự nối tiếp, là khía cạnh tinh vi trong quan hệ khăng khít: “hoa” – “ người» -> Biện pháp hoán dụ 
=> Nỗi nhớ mở đầu cho thấy thiên nhiên và con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình 
Ta về, mình có nhớ ta 
Ta về ta nhớ những hoa cùng người 
Nét son của bức tranh núi rừng ở đây là màu “đỏ tươi” của “hoa chuối”. Chấm phá của tranh thủy mặc điểm một sắc đỏ trong không gian xanh bao la, không gian mang sức sống mãnh liệt. 
Mùa đông trong câu thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè, không hề có cảm giác lạnh lẽo, bởi sắc đỏ hoa chuối cũng như phun trào từ giữa màu xanh của rừng . 
Xuất hiện hình ảnh con người lao động đang làm nương, phát rẫy lấy lương thực nuôi cách mạng. 
Con người như là điểm hội tụ của ánh sáng, xuất hiện ở tư thế, vị trí đẹp nhất -> tư thế của người làm chủ 
=> Con người đã trở thành linh hồn của bức tranh thiên nhiên mùa đông Việt Bắc 
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi 
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng . 
Bức tranh mùa đông 
Bức tranh mùa xuân 
Không gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc. Động từ “nở” cho thấy sức sống sinh sôi, tràn trề của núi rừng mùa xuân . Màu trắng của hoa mơ lan khắp cả không gian và thời gian 
Dưới bóng mơ dịu mát là hình ảnh con người «đan nón chuốt từng sợi giang ». Người Việt Bắc hiện lên ở nét đẹp cần mẫn, chịu thương chịu khó qua động từ «chuốt». Trong cách tả không có một âm vang nào của núi rừng, nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người . 
=> Phẩm chất tốt đẹp, hào hùng nhưng cũng rất tài hoa, khéo léo của người dân Việt Bắc 
Ngày xuân mơ nở trắng rừng 
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. 
«Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam 
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng .» 
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu 
«Chợt mưa phùn gió lạnh 
Càng lạnh cành hoa mơ 
Ðất trắng ngàn cánh rụng 
Tiếng quân hò thôn xa» 
Mưa – Quang Dũng 
«Ôi sáng xuân nay, Xuân 41 
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ 
Bác về... Im lặng. Con chim hót 
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ ..» 
Theo chân Bác – Tố Hữu 
Nón lá của đồng bào dân tộc Tày có nhiều loại: Nón chóp bẻ ở tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, nón cọ vùng Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, nón lá trắng, nón ba tầm quai thao. Người Tày, Nùng cũng có nghề đan nón như dân tộc Kinh. Nói là nghề đan nón nhưng thực ra nó chỉ mới trở thành “nghề” và là “nghề” của một số người đã qua tuổi ngũ, lục tuần. Công việc này đòi hỏi sự tỷ mẩn và chau chuốt của người làm ra nón . Để làm được một chiếc nón, người làm nón phải vào rừng chọn những cây giang bánh tẻ mọc được 1 năm, có đốt dài khoảng 60cm trở lên, không bị sâu bệnh, không bị cụt ngọn và tốt nhất lấy giang vào mùa sương giáng (sau ngày Đông chí) để đan nón. 
Bức tranh mùa hè 
– Không gian nỗi nhớ hình như rõ nét nhất, đậm đà nhất trong bức tranh mùa hạ . 
– Không gian lung linh hơn khi sắc vàng của lá phách đổ xuống. Ấn tượng màu vàng đẹp như bức vẽ tả thực vừa làm xao xuyến lòng người trong tiếng ve gọi hè, như gọi cả màu vàng đất trời về phủ kín cánh rừng. Động từ “đổ” miêu tả sự chuyển màu đột ngột, nhanh chóng của bức tranh thiên nhiên, đưa đến cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngợp trong lòng người. 
– Nổi bật giữa khung cảnh là hình ảnh “cô em gái”. Cách gọi biểu lộ niềm thân thương trìu mến của con người. « Một mình » nhưng không tạo cảm giác cô đơn hiu quạnh, vì cả không gian nhuộm rực ánh vàng, làm lưu luyến bước chân người ra đi. 
Ve kêu rừng phách đổ vàng 
Nhớ cô em gái hái măng một mình. 
Phách là loại cây gỗ cao, cuối hè đầu thu thì lá vàng rực lên” – (Nhớ lại một thời, Tố Hữu) 
Bởi vui quá không sợ buồn, sợ khổ 
Chia cho nhau manh áo cuối cùng 
Thiếu gạo ăn măng rừng trừ bữa 
Cả cuộc đời tính mệnh cũng là chung 
Xuân Sách 
Muốn ăn măng trúc, măng giang, 
Măng tre, măng nứa, cơm lam thì chèo. 
Ngược xuôi lên thác, xuống đèo, 
Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia . (ca dao) 
Bức tranh mùa thu 
– Mùa thu kết thúc đoạn tứ bình, cũng là thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan, oanh liệt, thời điểm chia li giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Đêm thu và ánh trăng như lan tỏa vào màu xanh của núi rừng. 
– “Rọi” là động từ miêu tả nguồn sáng tập trung soi chiếu xuống một điểm hẹp trong không gian. 
– Nỗi nhớ cũng mênh mang như ánh trăng, thành tiếng hát ân tình thủy chung. Nhớ không cụ thể một đối tượng nào . 
– Đọng lại trong nỗi nhớ là “ân tình thủy chung” dào dạt. Ánh trăng đã là hình ảnh của cuộc sống hòa bình, tiếng hát vang lên giữa rừng sâu, dưới ánh trăng thanh càng làm đậm hơn cảm giác tươi vui, thanh bình và sự hồi sinh sau chiến tranh. Cụm từ “nhớ ai” khiến hình ảnh con người như nhòa di, nỗi nhớ trở nên sâu đậm, ám ảnh hơn 
Rừng thu trăng rọi hoà bình 
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. 
"Trăng gió đêm Thu gợn vẻ sầu 
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt 
Lòng theo vời vợi mảnh trăng Thu" 
 (Trăng thu – Hồ Chí Minh) 
Nghệ thuật 
Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ gắn với hình ảnh của núi rừng Việt Bắc. Mỗi mùa mang một sắc màu riêng và bốn mùa hòa chung màu sắc đa dạng, làm nên vẻ hấp dẫn cho bức tranh phong cảnh trữ tình. Thời gian diễn tả không tuần tự, nhưng không làm phai nỗi nhớ. Mỗi mùa đi qua có một khoảnh khắc đáng nhớ – đó là khi trái tim nhà thơ bắt nhịp cùng không gian – cảnh vật. Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại: cổ điển – ức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả; hiện đại – hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức tranh. 
d. Khung cảnh Việt Bắc kháng chiến, lập nhiều chiến công, vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến 
* Nỗi nhớ thiên nhiên – nỗi nhớ cuộc sống con người ở Việt Bắc – nỗi nhớ về cuộc chiến đấu anh hùng chống thực dân Pháp xâm lược 
. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ. 
– Rừng núi mênh mông, hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta đánh giặc. 
– Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù. 
– Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: “núi giăng thành luỹ sắt”, “rừng che”, “rừng vây” 
– Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: “Phủ Thông”, “đèo Giàng”, “sông Lô”, “phố Ràng”, “Cao – Lạng” vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến về xuôi. 
– Không khí chiến đấu hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi: 
+ Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công sự hợp lực của nhiều thành phần tạo thành khối đoàn kết vững chắc. 
+ Các từ: “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng” thể hiện khí thế dồn dập. 
+ Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: Ánh sao đầu mũ bạn cùng mũ nan  ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng. 
+ Thành ngữ chân cứng đá mềm đã được nâng lên thành một bước cao hơn bước chân nát đá , muôn tàn lửa bay . 
– Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi Hồng Niềm vui chiến thắng chan hòa bốn phương: “Vui từ vui về vui lên” 
 Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha như ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập. Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, âm hưởng hào hùng, náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng. 
* Người ra đi nhớ về những ngày tháng cùng đồng đội ở căn cứ địa chiến đấu 
- Những ngày nắng vàng rực rỡ tung bay lá cờ đỏ sao vàng. 
- Những giờ đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược chiến đấu, điều quân cho những chiến dịch. 
→ Khí thế chiến đấu hừng hực của tiền tuyến và hậu phương, thể hiện tinh thần đồng lòng, quyết tâm đánh giặc không chỉ của những người ở chiến khu mà là của cả dân tộc, đất nước, con người Việt Nam . 
=> Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hi vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù 
III. Tổng kết 
1. Nội dung 
– Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết, gắn bó sâu sắc của tác giả. 
– Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc. 
2. Hình thức 
– Thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng. 
– Lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách hợp lí, tài tình. 
– Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ) được vận dụng khéo néo tinh tế. 
– Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô “mình – ta” quen thuộc trong ca dao khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc. 

Tài liệu đính kèm:

  • pptxbai_giang_ngu_van_khoi_12_tuan_9_viet_bac_tiep_theo.pptx