Bài giảng môn Ngữ Văn Lớp 12 - Tuần 10: Bài thơ Đất nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng)

Bài giảng môn Ngữ Văn Lớp 12 - Tuần 10: Bài thơ Đất nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng)

“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

      Cái kèo, cái cột thành tên,

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng ”

+Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” một cách hết sức tự nhiên, đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở trong con người 

+Từ xa xưa, con người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo, cột giằng giữ vào nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn; từ đó hình thành nên làng, xóm và Đất nước

+Hình ảnh thơ còn thể hiện sự cảm nhận về đất  nước gắn với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bản

 

ppt 74 trang Hoài Vân Nam 04/07/2023 2500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn Ngữ Văn Lớp 12 - Tuần 10: Bài thơ Đất nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“ Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều ” 
(Trích Trường ca “Bài thơ Hắc Hải” – Nguyễn Đình Thi) 
* * * 
“ Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhấtKhi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng ” .. 
(Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng? – Chế Lan Viên) 
( Trích trường ca Mặt đường khát vọng) 
Tiết 24-25: Văn 
I. Tìm hiểu chung: 
1. Tác giả: 
- Sinh 1943, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế. 
- Xuất thân: trong gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng. 
- Là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ trong những năm chống Mĩ. 
- Phong cách thơ: Giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận. 
- Tác phẩm chính: 
+ Đất ngoại ô (Tập thơ, 1972) 
+ Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974) 
+ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986) 
2. Trường ca Mặt đường khát vọng : 
a. Hoàn cảnh sáng tác: 
Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị - Thiên, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam về non sông, đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. 
- Đoạn trích Đất nước thuộc phần đầu chương V của trường ca. 
 Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong kháng chiến chống Mỹ 
3. Đoạn trích : 
 a. Xuất xứ: 
 Phần đầu chương V của trường ca “ Mặt đường khát vọng ” . 
 b. Đọc văn bản 
 c . Bố cục : Gồm hai phần: 
 - Phần 1: Từ đầu đến “ Làm nên đất nước muôn đời” 
 Những cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước. 
 - Phần 2: Còn lại 
Tư tưởng “Đất nước của Nhân dân”. 
II. Đọc – hiểu văn bản: 
1. Nguồn gốc, sự sinh thành và phát triển của đất nước (9 dòng đầu) 
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi 
Đất Nước có từ ngày đó”. 
Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên 
-Hai dòng đầu : ĐN có từ bao giờ? 
“Khi ta lớn lên .mẹ thường hay kể” 
 Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết .Chỉ biết rằng : khi ta cất tiếng khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu. Đất nước có từ lâu đời: trong thần thoại, truyền thuyết, cổ tích.. “ ngày xửa, ngày xưa” 
- Đất nước gắn liền với nền văn hóa lâu đời của dân tộc: phong tục, tập quán của người Việt: 
“ “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn, 
Tóc mẹ thì búi sau đầu 
+Hình ảnh “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích,ca dao,tục ngữ.“ Miếng trầu ”là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc 
+ B ằng những ý thơ giàu sức liên tưởng , nhà thơ đã đưa người đọc trở về với những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình ảnh “ tóc mẹ búi sau đầu ”, gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục của người Việt 
- Đất Nước lớn lên trong đau thương vất vả gắn liền với lịch sử đấu tranh của dân tộc: 
“ĐN lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” 
Từ truyền thuyết Thành Gióng dân gian đến tác phẩm thơ văn hiện đại, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước. 
- T rong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với với đời sống văn hóa tâm linh, Đất nước gắn liền với quá trình lao động cần cù, những con người sống ân tình thủy chung 
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn 
 Cái kèo, cái cột thành tên, 
 Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng ” 
+ Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” một cách hết sức tự nhiên, đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở trong con người 
+ Từ xa xưa, con người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo, cột giằng giữ vào nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn; từ đó hình thành nên làng, xóm và Đất nước 
+Hình ảnh thơ còn thể hiện sự cảm nhận về đất nước gắn với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bản 
 Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai sương” để nói lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các động từ “xay – giã – dần – sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao tháng ngày nắng sương vất vả gieo cấy, chăm sóc, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân vất vả nắng mưa. 
- Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định: 
“Đất Nước có từ ngày đó ” 
“Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết . Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam. 
*Tóm lại: Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ cùng các thành ngữ cùng với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, Hình ảnh giàu sức liên tưởng, gợi cảm , lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình thâm trầm- trang nghiêm, tha thiết, trữ tình , điệp từ “Đất nước”, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn của đất nước; về vẻ đẹp của một đất nước giàu văn hóa cổ truyền, đất nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹ p. Đất nước gần gũi, thân thương gắn bó với đời sống con người Việt Nam 
2. Đất nước được cảm nhận ở phương diện địa lí và phương diện lịch sử “ Đất là nơi .. Nhớ ngày giỗ tổ” 
*Khái quát : Ở 20 câu thơ này, nhà thơ tiếp tục bày tỏ sự cảm nhận của mình về đất nước để trả lời cho câu hỏi : Đất nước là gì Câu hỏi đã được nhà thơ trả lời bằng cách nêu ra những định nghĩa về đất nước ở hai phương diện : không gian địa lý và thời gian lịch sử . 
a. Về không gian địa lý ,- đất nước là nơi sinh sống của mỗi người , Là nơi gắn với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày 
“Đất là nơi ..là nơi em tắm” 
Khi DN được tách ra thành 2 thành tố gắn với kỉ niệm đáng yêu đáng nhớ, thân thuộc với mỗi con người. Tách thành tố Đất để chỉ con đường hang ngày anh đến trường, ngôi trường cung cấp hành trang tri thức cho mỗi chúng ta để ta tự tin làm chủ cộc sống. Tách thành tố Nước là dòng song em tắm mát, chở nặng phù sa làm tốt xanh những cánh đồng, bãi mía, nương dâu. Cách diễn đạt ấy giúp ta hình dung cụ thể ĐN là nơi ta lớn lên học tập và sinh hoạt 
- Là nơi gắn với kỉ niệm tình yêu đôi lứ a : 
“Đất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” 
ĐN hoà nhập vào một trở thành kg hẹn hò, nâng bước và minh chứng cho tình yêu của hai đứa. Nơi trai gái hẹn hò gợi nên những kg làng quê thanh bình, yên ả. Khi hai đứa yêu nhau thì ĐN như cũng sống trong nỗi nhớ thầm của hai đứa. Câu thơ đậm chất ca dao dân ca đặc trưng của văn hoá Việt xưa kia 
“Khăn thương nhớ ai ..” 
 - Là không gian rộng lớn, tráng lệ, hùng vĩ của núi cao, biển cả: 
“Đất là nơi .móng nước biển khơi mênh mông” 
+ Đất Nước được cảm nhận là“không gian mênh mông”. Có thể hiểu đó là núi sông, bờ cõi, là Bắc – Trung – Nam một dải. Là đất nước rừng vàng biển bạc. Trong ấy, bao thế hệ nối tiếp nước từ dãy Trường Sơn hùng vĩ - "Nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” cho đến biển bờ Thái Bình Dương vỗ sóng mênh mang -nơi "Con cá ngư ông móng nước biển khơi 
+N iềm tự hào về đất nước trù phú, giàu đẹp, tài nguyên vô tận 
 - Đất Nước còn là không gian sinh tồn, nơi phát sinh và phát triển của cộng đồng người Việt qua biết bao thế hệ: 
“Đất là nơi dân mình đoàn tụ” 
“Những ai đã khuất yêu nhau và sinh con đẻ cái để lại” 
b . Đất nước được c ảm nhận qua phương diện lịch sử 
-Đất nước thiêng liêng hào hùng trong quá khứ “Đất là n ơ i chim về Lạc Long Quân bọc trứng giỗ tổ” 
+ Ở phương diện này, đất nước có cả chiều sâu và bề dày được nhận thức từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ . 
+ Nguyễn Khoa Điềm với xúc cảm tự hào , ông nhớ lại huyền tích lung linh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân tộc Lạc Việt. Đó là truyền thuyết: 
“Lạc Long Quân và Âu Cơ 
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng “ 
Truyện cổ “Sự tích một trăm trứng” ra đời từ rất lâu đời nhằm lý giải xuất xứ của dân tộc Việt Nam. Từ câu chuyện đó, nhân dân ta mãi mãi tự hào mình là con rồng cháu tiên, con cháu Vua Hùng. 
c) Trên cơ sở đó, nhà thơ đã thức dậy lòng yêu nước, niềm tự hào về dòng máu Lạc Hồng, dòng máu con rồng cháu tiên, nhắc nhở thế hệ trẻ phải biết kế tục truyền thống của cha ông, của Đất Nước ( Đoạn thơ : Những ai đã khuất giỗ tổ) 
 Những ai đã khuất 
 Những ai bây giờ 
 Yêu nhau và sinh con đẻ cái 
 Gánh vác phần người đi trước để lại 
 Dặn dò con cháu chuyện mai sau 
- Yêu nước, lớp lớp con cháu người Việt nối bước cha ông, gánh vác trên vai trách nhiệm xây dựng và bảo vệ đất nước. 
- Cảm xúc và suy tư, trữ tình và chính luận khiến những câu thơ trên có sức lay động lớn đến tâm hồn người đọc về ý thức trách nhiệm của mỗi chúng ta: Dù người mất hay còn thì truyền thống dân tộc, đạo đức cha ông, các thế hệ con cháu phải có trách nhiệm kế thừa và phát huy. 
 Hàng năm ăn đâu làm đâu 
 Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ 
- Hai chữ “cúi đầu” thể tình cảm thành kính, thiêng liêng, chạm vào tình cảm cội nguồn, khơi dậy trong lòng người truyền thuyết v u a Hùng dựng nước. Xúc động và đáng trân trọng biết bao thái độ thành kính của nhà thơ hướng về quá khứ, cội nguồn của dân tộc. Cúi đầu để hướng về lịch sử về Tổ Hùng Vương đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc mà nay là nước Việt Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu. Người Việt mình dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh của họ luôn có một ngôi nhà chung để quay về. Đó chính là Quê cha đất Tổ Vua Hùng. 
Tóm lại 
- Bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi, Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp . Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình. 
- Nguyễn Khoa Điềm, qua đoạn thơ trên, đã nêu những định nghĩa đa dạng, phong phú về đất nước , từ chiều sâu của văn hóa văn tộc, chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều rộng của không gian đất nước . Nhà thơ cũng vận dụng rộng rãi các chất liêu văn hóa dân gian, từ truyền thuyết lịch sử, phong tục, tập quán đến sinh hoạt, lao động của dân tộc ta, kết hợp với những hình ảnh, ngôn ngữ nghệ thuật đậm đà tính dân tộc và giàu chất trí tuệ. 
2.Lời nhắn nhủ về sự gắn bó và trách nhiệm đối với Đất Nước: 13 câu tiếp 
“ Trong anh và em hôm nay 
 Làm nên Đất Nước muôn đời”. 
*Khái quát : Đọan thơ sau đây là những lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó và trách nhiệm của mỗi người với đất nước : 
“ Trong anh và em hôm nay, 
 Đều có một phần Đất Nước 
 Làm nên Đất Nước muôn đời”. 
-Đất nước đã hóa thân vào mỗi con người 
“ Trong anh và em hôm nay, 
Đều có một phần Đất Nước”. 
. 
 Đất nước đã hóa thân vào mỗi con người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra và lớn lên trên đất nước này. Mỗi người Việt Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm,nếp nghĩ và cách sống của mình. ĐN giản dị, gần gũi trong hiện tại. 
 - Từ việc khẳng định: đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người ,nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước bằng những dòng thơ giàu chất chính luận : 
“Khi hai đứa cầm tay 
 Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm 
 Khi chúng ta cầm tay mọi người 
 Đất Nước vẹn tròn, to lớn”. 
-Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu và niềm tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ “ hài hòa, nồng thắm”; “vẹn tròn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (“Khi /Khi; Đất Nước / Đất Nước ),nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thông điệp: đất nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân với cộng đồng. ĐN được xd trên cơ sở của tình yêu thương và tình đoàn kết của dân tộc. 
- Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, 
giữa tình yêu cá nhân với tình yêu lớn của đất nước; nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước : 
“Mai này con ta lớn lên 
 Con sẽ mang Đất Nước đi xa 
 Đến những tháng ngày mơ mộng”. 
Có thể nói , ba dòng thơ đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước. 
Thế hệ sau “ con ta lớn lên sẽ mang Đất Nước đi xa- Đến những tháng ngày mơ mộng ”.Đất nước sẽ đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại sẽ trở thành hiện thực ở ngày mai. 
- Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của đất nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi người : Trách nhiệm với đât n ư ớc 
 “ Em ơi em Đất nước là máu xương của mình 
Phải biết gắn bó và san sẻ 
 Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở 
 Làm nên Đất Nước muôn đời ” 
Điệp ngữ, kết cấu câu mệnh lệnh,giàu tính chính luận. Lời thơ nhẹ nhàng, tha thiết nhắc nhở chính mình và nhắn gửi mọi người phải có trách nhiệm đối đất nước, giữ gìn đất nước mãi trường tồn. 
*Bằng giọng th ơ trữ tình kết hợp với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ “ phải biết - phải biết ” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “ gắn bó, san sẻ, hóa thân ” nhà thơ như nhắn nhủ mình, nhưng cũng là nhắn nhủ với mọi người ( nhất là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất nước. Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời tự dặn mình - dặn người của nhà thơ. 
4 . Ca ngợi Đất Nước hùng vĩ, ca ngợi vẻ đẹp của Nhân dân “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nướcnhững núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau còn góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta ”  
*Khái quát : Đoạn thơ 12 câu này trích trong phần II bài "Đất Nước" đã ca ngợi Đất Nước hùng vĩ, tự hào khẳng định những phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta . Câu thơ mở rộng đến 13, 14, 15 từ, nhưng vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu âm điệu và nhạc điệu gợi cảm 
* Tám câu thơ đầu nói về tượng hình Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc . Khắp nơi trên mọi miền Đất Nước ta, ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. 
- T hiên nhiên địa lí được hình thành từ cuộc đời và số phận của nhân dân: 
 "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu 
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái". 
 Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định , hòn Trống Mái ở Sầm Sơn: là do "những người vợ nhớ chồng" hoặc những "cặp vợ chồng yêu nhau" mà "góp cho", "góp thêm", làm đẹp thêm, tô điểm cho Đất Nước. 
Núi Vọng Phu 
Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định,... hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì Đất Nước mới có tượng hình kì thú ấy. 
 Cái "gót ngựa của Thánh Gióng" đã "để lại" cho đất nước bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay. 
-Hai câu thơ tiếp Tác giả ca ngợi vẻ đẹp của Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống: 
"Gót ngựa của 
 Hùng Vương" 
 "Chín mươi chín" núi con Voi đã quần tụ, chung sức chung lòng "góp mình dựng đất tổ Hùng Vương". . Các từ ngữ: "đi qua còn... để lại", "góp mình dựng" đã thể hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước: 
- Đất Nước ta Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài 
còn có những dòng sông thơ mộng: 
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm 
Rồng "nằm im" từ bao đời nay mà quê hương có "dòng sông xanh thẳm" cho nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa. ) ca ngợi giang sơn gấm vóc, con người Việt Nam rất đỗi tài hoa? 
- Ngắm núi Bút, non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm nghĩ về người học trò nghèo: về truyền thống hiếu học và tấm lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta: 
“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên” 
 " Nghèo " mà vẫn góp cho đất nước ta n úi Bút non Nghiên, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt, văn hiến Việt Nam. Nghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng. 
- Tư tưởng "Đất Nước là của nhân dân" cũng thể hiện trong kì quan nổi tiếng, những tên tuổi có công với dân với nước: 
“Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh 
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” 
+Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có "con cóc, con gà quê hương cùng góp cho“ 
+ Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm... ở vùng cực Nam Đất nước xa xôi là do những người dân vô danh bình dị làm nên , đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào kênh, bắt sấu, bộ hổ... làm nên ? Nhà thơ đã có một cách nói bình dị mà thấm thía ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã "làm nên Đất Nước muôn đời" : 
Sông Ông Đốc 
* Qua cái nhìn của nhà thơ, mỗi danh thắng còn ẩn chứa nét đẹp tâm hồn của nhân dân: 
+ Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái biểu tượng cho sự thuỷ chung, tình nghĩa vợ chồng thắm thiết. 
+ Những "ao đầm" mà "gót ngựa Thánh Gióng đi qua" tượng trưng cho truyền thống yêu nước và sức mạnh bất khuất của dân tộc. 
+ Núi Bút non Nghiên tượng trưng cho truyền thống hiếu học, vượt khó vươn lên của nhân dân. 
+ Những địa danh ở vùng cực Nam đất nước xa xôi tượng trưng cho tinh thần xả thân vì cộng đồng, đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta. 
 *Tóm lại : Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn Đất Nước cùng Nhân dân. Các thi liệu - hình ảnh: người vợ, cặp vợ chồng, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trò nghèo, con cóc con gà, những người dân nào... dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, cho trí tuệ và tài năng, đức tính cần cù và tinh thần dũng cảm,... của nhân dân ta qua trường kì lịch sử. Chính nhân dân vĩ đại đã "góp cho", "góp nên", "để lại", "góp mình", "cùng góp cho", "đã góp tên" ,... đã làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. 
* Bốn câu thơ cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào. Từ cụ thể, thơ được nâng lên tầm khái quát, tính chính luận kết hợp một cách hài hòa với chất trữ tình đằm thắm: sự hóa thân của Nhân Dân vào bóng hình Đất Nước. 
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi 
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha 
Ôi Đất Nước sau 4.000 năm đi đâu ta cũng thấy 
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta 
+ Nhân Dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, khắp mọi miền đất nước này: 
– Hai câu đầu là khẳng định dáng hình của Nhân Dân trong không gian Đất Nước “trên khắp ruộng đồng gò bãi”. Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ làm cho đất nước thêm phần tươi đẹp mà còn mang “một ao ước, một lối sống cha ông”. Nghĩa là nhân dân không chỉ góp danh lam thắng cảnh, mà còn góp vào đó những giá trị tinh thần, là phong tục, tập quán, là truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai sau. 
– Hai câu cuối là nhờ “những cuộc đời” đã hóa thân để góp nên. Nhân Dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà còn góp cả cuộc đời và số phận mình. Ý thơ giản dị mà sâu sắc khiến ta hình dung Đất Nước thật gần gũi và thân thuộc. 
Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người, giữa đất nước với nhân dân. Cũng qua khổ thơ, tác giả đã bộc lộ được niềm tự hào khôn xiết trước vẻ đẹp của thiên nhiên, vóc dáng, dáng hình của quê hương và những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Đó còn là thái độ yêu thương, trân trọng, tự hào trước những đóng góp lớn lao của thế hệ cha ông đi trước. 
6. Nhân dân làm nên lịch sử và truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc 
“Em ơi emHãy nhìn rất xaVào bốn ngàn năm Đất NướcNăm tháng nào cũng người người lớp lớpCon gái, con trai bằng tuổi chúng taCần cù làm lụngKhi có giặc người con trai ra trậnNgười con gái trở về nuôi cái cùng conNgày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánhNhiều người đã trở thành anh hùngNhiều anh hùng cả anh và em đều nhớNh ư ng em biết khôngCó biết bao người con gái, con traiTrong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước 
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái tráiCó ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bại” 
*Khái quát: - Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên lịch sử và truyền thống dựng nước và giữ nước . Nhân dân Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ khác nối tiếp nhau trong lao động và đánh giặc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Trước hết , nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là : người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị 
“Em ơi emHãy nhìn rất xaVào bốn ngàn năm Đất Nước 
- Họ là những người lao động cần cù, chịu đựng, chịu khó trong lao động sản xuất: 
 Năm tháng nào cũng người người lớp lớpCon gái, con trai bằng tuổi chúng taCần cù làm lụng 
-K hi có giặc ngoại xâm thì họ đã trở thành những anh hùng yêu nước. 
Khi có giặc người con trai ra trậnNgười con gái trở về nuôi cái cùng conNgày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánhNhiều người đã trở thành anh hùngNhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ ” 
+ Khi có giặc người con trai ra trận, người con gái nu ôi cái c ùng con. Đã thể hiện được sự chung sức chung lòng để cứu nước. Và “ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”, làm ta liên tưởng đến các anh hùng như chị Tịch, Nguyễn Thị Minh Khai 
+ Nhìn vào lịch sử 4000 năm Đất Nước, nhà thơ đã không nhắc lại các triều đại hay kể tên các bậc vua chúa, các vị anh hùng mà những người được kể tên lại chính là những người vô danh trong cuộc sống giản dị . Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”: 
- Nhưng cũng có hàng triệu , hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống .Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về đất nước của nhà thơ.Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân 
+ Từ đó, nhà thơ đã khẳng định truyền thống của dân tộc Việt Nam: Sức mạnh đoàn kết , nhất trí một lòng và có lòng căm thù sâu sắc. Đó là truyền thống lâu đời và đưuọc phát huy từ đời này sang đời khác. 
“ Nh ư ng em biết khôngCó biết bao người con gái, con traiTrong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước ” 
+ Và trong cái chiều dài của lịch sử dân tộc ấy, có biết bao lớp người con gái, con trai giống như lớp tuổi chúng ta bây giờ, họ đã sống và chết một cách giản dị và bình tâm không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng mà nhà thơ đã khẳng định vai trò của họ đối với đất nước thật vô cùng to lớn. Họ chính là những con người bình thường, giản dị, nhưng có một tình cảm sâu đậm đối với đất nước. Khi đất nước lâm nguy, bị kẻ thù xâm chiếm, họ tạm gác lại những tình cảm riêng tư, lên đường đi chiến đấu, đem máu xương của mình hiến dâng cho Tổ quốc. Chính họ là những con người "làm ra Đất Nước". 
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái 
- Trên phương diện văn hoá, cũng chính nhân dân là người lưu giữ và bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc: 
 Đại từ “Họ” đặt đầu câu + nhiều động từ “giữ, truyền, gánh” Chính nhân dân là người đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa tinh thần và vật chất. 
+ Với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả đã khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân như “ hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên làng ” cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính họ đã tạo dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân. 
- Họ có công trong việc chống ngoại xâm, dẹp nội thù: 
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bại 
H ọ còn luôn sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước thân yêu của mình. Ở đây, nhận thức về đất nước và lòng yêu nước của nhà thơ đã gắn liền với lòng biết ơn nhân dân, bởi nhân dân mới là những chủ thể đích thực làm ra đất nước và bảo vệ đất nước. Họ giữ yên bờ cõi và xây dựng 
cuộc sống hoà bình. 
+ Ông c ha ta đời này qua đời khác đã luôn đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết . H ọ sẵn sàng hy sinh để đi đánh giặc cứu nước . 
+ Cấu trúc đ iệp "có"..."thì" cho thấy tinh thần tự nguyện, hăng hái, sẵn sàng chiến đấu hi sinh để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc một cách tự nhiên như lẽ sống ngàn đời của người dân Việt 
61 
*Tóm lại : - Qua đoạn thơ, tác giả đã biểu dương, ngợi ca vai trò của Nhân dân bằng những hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình khẳng định sức mạnh lớn lao của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước. 
-Đ oạn thơ đã tái hiện cụ thể công lao đóng góp to lớn của nhân dân với đất nước. Nhà thơ đã nhìn nhận về đất nước và tư tưởng đất nước của nhân dân trên nhiều bình diện. cùng với giọng điệu trữ tình chính trị vừa thể hiện chiều sâu tư tưởng vừa thấm thía mà sức lay động trái tim con người, đặc biệt là tinh thần của thế hệ trẻ trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước đương thời. Đoạn thơ là những suy tư , phát hiện mới mẻ về vai trò của nhân dân trong lịch sử, khẳng định một tư tưởng mang tính thời đại: Đất Nước là của nhân dân , Nguyễn Khoa Điềm còn khơi dậy niềm tự hào về quê hương , tổ quốc trong lòng mỗi người. Với thế h ệ trẻ hiện nay cần phải cố gắng học tập để làm tròn trách nhiệm mà người đi trước để lại. 
7. Đất Nước là của nhân dân, vẻ đẹp của nhân dân- Vẻ đẹp của Đất Nước 
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân 
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại 
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” 
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội 
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy 
Đi trả thù mà không sợ dài lâu 
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu 
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát 
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác 
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi 
*Khái quát: Đọan thơ sau đây là sự thể hiện sâu sắc những suy tư, nhận thức về đất nước của nhà thơ trên cơ sở tư tưởng Đất nước của Nhân dân 
- Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định : ĐN là của Nhân dân, là cảm hứng chung cho cả đoạn thơ: 
 “ Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân 
 Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” 
 + Nhà thơ khẳng định chắc nịch “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng định ấy đã thể hiện một cách chân thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc. N hân dân là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì thế Đất Nước không của riêng ai mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân. 
+ Điệp ngữ chuyển tiếp “ Đất nước của nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh “ Đất Nước của ca dao thần thoại” . Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. 
Nhân dân sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại . Như vậy cũng chính là đã sáng tạo ra đất nước. N hà thơ đã khám phá ra những vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của dân tộc: Vẻ đẹp truyền thống của nhân dân trong ca dao, thần thoạt Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân : 
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” 
Biết quý công cầnm vàng những ngày lặn lội 
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy 
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. 
+ Đó là vẻ đẹp giàu lòng yêu thương 
 “ “Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” 
 của người Việt đã bắt nguồn từ thời xa xưa với những lời dân ca ngọt ngào 
 “Yêu em từ thuở trong nôi, 
 Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru” 
+Và đó là vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩa hơn cả vật chất ngàn vàng: 
“Biết quý công cầnm vàng những ngày lặn lội” 
Ở đây, ý thơ của nhà thơ được gợi lên từ chính những câu ca dao một thời đi vào đời sống tâm hồn của dân tộc : 
“ Cầm vàng mà lội qua sông 
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng ” 
+ Và đó còn là sự thể hiện của truyền thống kiên cường, bất khuất của trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.Vẻ đẹp của truyền thống anh hùng ấy cũng được làm nên từ những câu ca dao từng ca ngợi tinh thần quật khởi của dân tộc : 
“ Thù này ắt hẳn còn lâu 
Trồng tre nên gậy 

Tài liệu đính kèm:

  • pptbai_giang_mon_ngu_van_lop_12_tuan_10_bai_tho_dat_nuoc_trich.ppt